Chủ nhật 14/12/2025 04:49
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện tổ chức bộ máy của Chính phủ và nền công vụ

Tóm tắt: Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, quy định của pháp luật, bài viết tập trung phân tích các khía cạnh pháp lý và thực tiễn hoạt động của bộ máy Chính phủ và chế độ công vụ, đánh giá những bất cập, hạn chế về thể chế và thực tế triển khai. Qua đó, bài viết đề xuất các giải pháp góp phần tổ chức bộ máy của Chính phủ hợp lý, tinh gọn, thực hiện tinh giản biên chế đúng đối tượng, triển khai đồng bộ các chính sách thu hút, sử dụng người có tài năng, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, góp phần nâng cao chất lượng của nền công vụ.

Abstract: On the basis of the Party’s guidelines and current legal regulations, this article focuses on analyzing the legal and practical aspects of the operation of the Government apparatus and the public service regime, assessing its inadequacies and limitations. Thereby, the article will propose solutions for organizing the streamlined and effective apparatus of the Government, reducing the number of public staff in the right subject oriented, synchronously implementing policies to attract and employ talented people, increasing administrative discipline to improve the quality of public services.

1. Về tổ chức bộ máy của Chính phủ

1.1. Về cơ cấu tổ chức của Chính phủ

Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở (Kết luận số 64-KL/TW) đã xác định quan điểm, mục tiêu đổi mới tổ chức Chính phủ, chính quyền địa phương: Trước mắt giữ ổn định tổ chức của Chính phủ, tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực phù hợp với thực tiễn đất nước. Điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các Bộ, ngành tập trung vào quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, khắc phục những chồng chéo hoặc bỏ trống về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý; làm rõ mối quan hệ phối hợp giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ; bảo đảm nguyên tắc một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính.

Vừa qua, việc sắp xếp, điều chỉnh tổ chức các bộ theo mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực là cơ sở cho việc tổ chức hợp lý các Bộ, cơ quan ngang Bộ, bảo đảm chủ trương tinh gọn bộ máy, giảm số lượng đầu mối các cơ quan. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm có cơ quan ngang Bộ và hoàn thiện tổ chức Chính phủ luôn chú trọng các cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực này. Tuy nhiên, khi đánh giá một cách tổng thể, cần đề cập các cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác như các Ban Chỉ đạo liên ngành, các cơ quan được thành lập theo trình tự luật định, cung cấp dịch vụ công.

Hiện nay, trong cơ cấu tổ chức của Chính phủ, 08 cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện một số dịch vụ công có đặc điểm, tính chất quan trọng mà Chính phủ phải trực tiếp chỉ đạo. Về nguyên tắc, các cơ quan thuộc Chính phủ không có chức năng quản lý nhà nước và không ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thực tế cho thấy, quy chế pháp lý của cơ quan thuộc Chính phủ đã phát sinh vướng mắc cần điều chỉnh lại. Thời gian qua, tình trạng trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế diễn ra ngày càng phức tạp, trong khi thanh tra lao động - thương binh và xã hội cần bao quát nhiều lĩnh vực như: Việc làm, giáo dục nghề nghiệp, lao động, tiền lương. Tại Luật Bảo hiểm xã hội, Quốc hội đã giao cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện thanh tra chuyên ngành đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế là một nhiệm vụ quản lý nhà nước.

Hiện đang có đề xuất thành lập một số cơ quan thuộc Chính phủ (như cơ quan quản lý vốn nhà nước); tuy nhiên, sẽ vướng mắc nếu không được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước.

Như vậy, nếu các cơ quan thuộc Chính phủ được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước thì cơ cấu tổ chức của Chính phủ cần được nghiên cứu, hoàn thiện một cách phù hợp.

1.2. Về cơ cấu tổ chức các cơ quan ngang Bộ

Trong các nhiệm kỳ gần đây, tổ chức của Chính phủ đều quán triệt nguyên tắc hình thành và duy trì bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Tuy nhiên, trong từng Bộ, cơ quan, vẫn còn tình trạng gia tăng các đơn vị trực thuộc; chuyển vụ thành cục, cục thành tổng cục.

Thời gian qua, các đơn vị sự nghiệp công lập được đưa vào cơ cấu tổ chức của cơ quan ngang Bộ xuất phát từ tư duy coi các đơn vị này là một bộ phận của bộ máy tổ chức bộ máy của Bộ. Với quan niệm đó, phát sinh thẩm quyền của thủ trưởng cơ quan quản lý đơn vị sự nghiệp trong việc quyết định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, số lượng người làm việc, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo của đơn vị sự nghiệp. Điều này chưa phù hợp với xu hướng thực hiện quy chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp. Như vậy, cần đổi mới cơ chế quản lý đối với đơn vị sự nghiệp công lập mà trước hết là quan niệm coi đó là một bộ phận trong cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính nhà nước, tiến tới xóa bỏ cơ chế “chủ quản” đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.

Luật Viên chức mới dừng ở việc quy định địa vị pháp lý của viên chức, các chính sách đối với viên chức: Tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý, thôi việc, nghỉ hưu, kỷ luật…, trong khi đó, vấn đề cốt lõi của dịch vụ sự nghiệp công như: Đơn vị sự nghiệp công lập, các loại hình dịch vụ sự nghiệp công lập, phương thức cung cấp dịch vụ sự nghiệp công lập…. chưa được quy định đầy đủ.

Đã đến lúc cần nghiên cứu ban hành Luật Dịch vụ sự nghiệp công làm cơ sở sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập. Căn cứ quy định của Luật này, Chính phủ xác định những dịch vụ sự nghiệp do các tổ chức, cá nhân ngoài Nhà nước thực hiện, những dịch vụ sự nghiệp do nhà nước trực tiếp thực hiện và những loại dịch vụ do Nhà nước, xã hội cùng thực hiện.

Đồng thời, cần tiếp tục thực hiện lộ trình giá dịch vụ sự nghiệp công, bảo đảm giá dịch vụ phải tính đủ chi phí. Nhà nước không thực hiện cấp chi phí thông qua biên chế mà trực tiếp hỗ trợ cho các đối tượng sử dụng dịch vụ thuộc diện có hoàn cảnh khó khăn hoặc bảo đảm hoạt động đối với các dịch vụ sự nghiệp công lập có tính chất đặc biệt hoặc trên địa bàn vùng sâu, vùng xa như: Giám định pháp y, cơ sở điều trị bệnh lây nhiễm, các cơ sở giáo dục, y tế.

1.3. Về thể chế của tổ chức bộ máy

Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã nêu chủ trương, giải pháp: Các văn bản pháp luật ban hành phải quán triệt tinh thần đẩy mạnh cải cách hành chính; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan trong bộ máy nhà nước; hạn chế tối đa việc quy định về tổ chức bộ máy ngay trong các luật chuyên ngành.

Việc ấn định tổ chức các cơ quan trong các luật, pháp lệnh làm ảnh hưởng đến tính đồng bộ của hệ thống các văn bản về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của các các cơ quan hành chính nhà nước.

Theo Quyết định số 2218/QĐ-TTg ngày 10/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, Bộ Nội vụ được giao nhiệm vụ phối hợp với Bộ, ngành và địa phương xây dựng Luật sửa đổi các quy định về tổ chức bộ máy, biên chế trong các Luật hiện hành không thuộc lĩnh vực tổ chức nhà nước (dự kiến trình Quốc hội năm 2018), Nghị định sửa đổi các Nghị định của Chính phủ hiện hành không thuộc lĩnh vực tổ chức nhà nước có quy định về tổ chức bộ máy, biên chế (dự kiến trình Chính phủ vào Quý IV/2017) và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi các quy định về tổ chức bộ máy, biên chế trong các văn bản pháp luật hiện hành không thuộc lĩnh vực tổ chức nhà nước do Thủ tướng Chính phủ ban hành (dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ vào Quý IV/2017).

Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ nêu trên, tới đây, các văn bản luật, pháp lệnh chỉ nên quy định nhiệm vụ của Chính phủ trong quản lý nhà nước các ngành, lĩnh vực thay vì quy định cụ thể nhiệm vụ của các Bộ, cơ quan. Trên cơ sở đó, Chính phủ chủ động phân công các Bộ, cơ quan giúp Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ cụ thể, đồng thời chủ động điều chỉnh nhiệm vụ của các cơ quan để xử lý những vướng mắc, bất cập phát sinh trong quá trình thực hiện.

2. Về công vụ

2.1. Về thể chế

Kết luận số 64-KL/TW, Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức định hướng: Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và các văn bản quy định chi tiết luật đã quy định các nguyên tắc quản lý, sử dụng cán bộ, công chức; chính sách thúc đẩy cải cách công vụ như thu hút, trọng dụng người có tài năng; đánh giá, phân loại công chức. Các văn bản về tinh giản biên chế đã được ban hành không chỉ với mục đích giảm số lượng mà hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đối với hoạt động lao động đặc thù là công vụ.

Tuy nhiên, một số nội dung về tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, viên chức chưa được hoàn thiện kịp thời để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi thực tiễn, đặc biệt là để thúc đẩy cải cách công vụ, duy trì kỷ luật, kỷ cương như một biện pháp nâng cao hiệu quả công vụ, cung cấp dịch vụ công. Một số nội dung chưa được thể chế hóa để bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất giữa quy định của Đảng với pháp luật của Nhà nước như tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý; đánh giá, kỷ luật cán bộ, công chức. Việc xác định vị trí việc làm chưa đạt hiệu quả như mong muốn, chưa phải là cơ sở khoa học và là căn cứ để xác định biên chế công chức và số lượng viên chức. Cơ chế đánh giá cán bộ chưa thật khoa học, phù hợp; chưa có cơ chế kịp thời thay thế những cán bộ, công chức, viên chức không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

Ngoài việc sửa đổi, bổ sung một số quy định để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, cần hoàn thiện thể chế thúc đẩy cải cách công vụ như chế độ công chức hợp đồng, cơ chế cung cấp dịch vụ ở cả khu vực công lập và ngoài công lập.

2.2. Về cán bộ, công chức cấp xã

Tính đến năm 2015, cả nước có 11.162 đơn vị hành chính cấp xã; 136.824 thôn, tổ dân phố với số lượng 234.061 cán bộ, công chức cấp xã; 922.533 người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, tổ dân phố.

Số lượng cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tăng về số lượng; chế độ, chính sách được quy định trong các văn bản như Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Dân quân, tự vệ, Luật Thú y… Ngoài lý do gia tăng đơn vị hành chính, thôn, tổ dân phố, việc phân cấp cho các địa phương quyết định số người hoạt động không chuyên trách là một nguyên nhân dẫn đến gia tăng số lượng chức danh này. Hơn nữa, các tổ chức đoàn thể đều bố trí người của tổ chức mình tại thôn, tổ dân phố.

Với mục tiêu kiện toàn, sắp xếp tổ chức của hệ thống chính trị đồng bộ, thống nhất, định hướng trong mỗi thời kỳ được thể hiện qua các giải pháp cụ thể, gắn với những mốc hoàn thiện pháp luật. Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 02/02/2008 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên nêu: Một số chức danh cán bộ chuyên trách ở xã, phường, thị trấn cần và có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Chính phủ thì được xem xét chuyển thành công chức nhà nước để tạo sự liên thông trong đội ngũ cán bộ, công chức ở các cấp; cán bộ không chuyên trách thì thực hiện theo hướng khoán kinh phí hoạt động và đóng bảo hiểm tự nguyện.

Kết luận số 64-KL/TW định hướng: Công chức cấp xã có thể là công chức cấp huyện được điều động về làm việc tại xã. Tăng cường kiêm nhiệm công việc, khoán quỹ phụ cấp để giảm dần số lượng người hoạt động không chuyên trách gắn với việc tăng thu nhập của cán bộ, công chức cấp xã. Từ nhiệm kỳ 2015 - 2020, cán bộ cấp xã hoạt động theo nhiệm kỳ, được hưởng chế độ theo quy định của Nhà nước; hết nhiệm kỳ không được bầu vào chức danh mới, nếu đủ tiêu chuẩn, điều kiện, thì được bố trí công tác khác theo quy định, nếu không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, thì được nghỉ công tác, hưởng chế độ trợ cấp một lần và đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện.

Giảm số người làm việc phải gắn với tinh gọn đầu mối tổ chức, chuẩn hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Về thể chế, cần rà soát số lượng chức danh cán bộ để điều chỉnh một cách phù hợp. Cần tăng cường kiêm nhiệm tiến tới không còn người hoạt động không chuyên trách ở cơ sở. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh tự quản để tránh hành chính hóa một số hoạt động quản lý mang tính cộng đồng ở cơ sở.

2.3. Về tinh giản biên chế

Số lượng cán bộ, công chức, viên chức (chưa bao gồm những người hoạt động không chuyên trách) có chiều hướng gia tăng những năm gần đây, nhất là viên chức. Tinh giản biên chế sẽ làm tinh gọn bộ máy, giảm nguồn chi từ ngân sách nhà nước cho các khoản lương, phụ cấp và các chi phí khác.

Để giải quyết một cách cơ bản vấn đề này, cần các giải pháp mang tính đồng bộ, hệ thống, khoa học như tinh gọn bộ máy, rà soát đơn vị hành chính, xác định vị trí việc làm, cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức, chuyển đổi cơ chế quản lý.

Vừa qua, cơ chế giao, quản lý và sử dụng biên chế đã có những bước đổi mới. Chế độ kiêm nhiệm các chức danh và thí điểm khoán kinh phí hành chính đã được áp dụng để khuyến khích giảm biên chế. Số lượng cấp phó lãnh đạo, quản lý ở các tổ chức cũng được rà soát.

Thực hiện chủ trương không tăng tổng biên chế của cả hệ thống chính trị, một số cơ quan đã tự bố trí biên chế, kể cả trường hợp lập thêm tổ chức hoặc được giao nhiệm vụ mới.

Trong những năm gần đây, số người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp có xu hướng gia tăng làm phát sinh chi phí từ ngân sách nhà nước. Ngoài những nguyên nhân liên quan đến cơ cấu, năng lực, xác định vị trí việc làm, cần tính tới yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng nêu trên như: Một số văn bản quy phạm pháp luật xác định chức danh và định mức viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập (văn thư, thủ quỹ, kế toán, y tế trường học, bác sỹ, y tá, nhân viên y tế). Việc chấp hành các quy định này là bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật nhưng trong một số trường hợp, không phù hợp với cơ chế tự chủ của các cơ sở giáo dục, y tế, vượt quá nhu cầu thực tế của đơn vị.

Tinh giản số người làm việc trong đơn vị sự nghiệp là giải pháp ưu tiên và cần gắn với triển khai xã hội hóa, đổi mới tổ chức và hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập.

2.4. Về đơn vị sự nghiệp công lập

Kết luận số 64 - KL/TW nêu: Xã hội hóa dịch vụ công chậm; cần đổi mới mạnh mẽ tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công.

Thời gian qua, đổi mới hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công được tập trung vào thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Theo đó, đơn vị sự nghiệp công được tự chủ trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, về bộ máy, nhân sự, tài chính. Tổ chức và hoạt động của hội đồng quản lý, mối quan hệ giữa hội đồng quản lý với người đứng đầu đơn vị sự nghiệp đã được xem xét trong quá trình tăng cường tự chủ của các đơn vị sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp khác.

Tuy nhiên, tự chủ về nhân sự, tổ chức bộ máy chưa đồng bộ với tự chủ về tài chính. Trên thực tế, cơ quan chủ quản vẫn bổ nhiệm người đứng đầu cũng như các phòng, ban của đơn vị sự nghiệp. Bên cạnh đó, một số quy định pháp luật về quản lý viên chức không những không thúc đẩy mà còn cản trở quyền của đơn vị sự nghiệp trong việc quyết định nhân sự như một đòi hỏi của cơ chế tự chủ. Quyền hạn của đơn vị sự nghiệp công lập cũng như người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập bị ràng buộc bởi các quy định về trình tự, thủ tục trong tuyển dụng, kỷ luật, bổ nhiệm, độ tuổi và xếp lương viên chức. Để đổi mới cơ chế hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập, giảm chi lương viên chức từ ngân sách nhà nước, cần quản lý chặt chẽ việc thành lập mới các đơn vị sự nghiệp công lập, nhất là các đơn vị không tự bảo đảm được kinh phí hoạt động nhưng không thuộc dịch vụ công thiết yếu mà Nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hiện.

Bên cạnh đó, cần kiểm soát việc chuyển người lao động thành viên chức do thay đổi mô hình tổ chức.

Cần xác định định mức, tiêu chuẩn cung ứng dịch vụ công; khuyến khích thành lập các tổ chức cung ứng dịch vụ công thuộc các thành phần ngoài nhà nước cùng với việc thiết lập cơ chế giám sát, kiểm tra của các cơ quan nhà nước và nhân dân đối với hoạt động này.

Trước mắt, cần kiên trì chủ trương tinh giản biên chế. Về lâu dài, cần sửa đổi quy định quản lý viên chức theo hướng xóa bỏ cơ chế “cấp, phân bổ biên chế”, áp dụng chế độ hợp đồng và sát hạch viên chức; cấp ngân sách, kinh phí theo khối lượng và kết quả thực hiện công việc được giao cho đơn vị sự nghiệp công lập.

TS. Hoàng Thị Ngân

ThS. Bùi Công Quang

Văn phòng Chính phủ

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Tóm tắt: Trong kinh tế tri thức, tài sản trí tuệ là yếu tố then chốt góp phần quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển tư nhân. Bài viết nghiên cứu một số bất cập về pháp luật sở hữu trí tuệ, từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời, đưa ra giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc khai thác hiệu quả giá trị kinh tế của tài sản trí tuệ, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.

Theo dõi chúng tôi trên: