Chính phủ tiếp tục có những cam kết đẩy mạnh cải cách hành chính, cắt giảm, bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không hợp lý, tạo những chuyển biến sâu sắc hơn về môi trường đầu tư - kinh doanh, giảm chi phí cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2015 - 2020 vẫn còn những hạn chế, khó khăn và tồn tại nhất định cần phải khắc phục trong thời gian tới. Qua bài viết, tác giả Nguyễn Thị Thanh Bình và Nguyễn Văn Hoàn sẽ đề cập đến thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2015 - 2020 và nhu cầu cần hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 - 2026.
1. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2015 -2020
Thời gian qua, Quốc hội đã thông qua nhiều dự án luật quan trọng, trong đó có Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, ban hành một số nghị quyết quan trọng, đặc biệt là Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTTP), phê chuẩn hiệp định tự do thương mại EVFTA, cùng nhiều văn kiện liên quan. Chính phủ tiếp tục có những cam kết đẩy mạnh cải cách hành chính, cắt giảm, bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không hợp lý, tạo những chuyển biến sâu sắc hơn về môi trường đầu tư - kinh doanh, giảm chi phí cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2015 - 2020 vẫn còn những hạn chế, tồn tại nhất định.
1.1. Tồn tại và hạn chế
Thứ nhất, đa số các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, trong đó số lượng doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ chiếm đa số (trên 97,7%[1]) trong tỷ trọng doanh nghiệp ở cả ba lĩnh vực: Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; công nghiệp, xây dựng; dịch vụ.
Thứ hai, sự liên kết của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, đặc biệt là có rất ít mối liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp có quy mô lớn hơn. Theo Báo cáo triển vọng phát triển châu Á của Ngân hàng Phát triển châu Á, hiện nay mới chỉ có 21% các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu so với 30% của Thái Lan và 46% của Malaysia. Quá trình sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam có rất ít sự liên kết vào chuỗi giá trị. Điều này khác với hầu hết các nước có năng suất cao, nơi mà việc hợp đồng thầu phụ giữa các doanh nghiệp lớn và nhỏ rất phổ biến. Các ngành sản xuất trong nước còn thiếu tính hiệu quả kinh tế theo quy mô và thiếu sự cạnh tranh từ hàng hóa nhập khẩu có nghĩa là họ không có động lực để tiếp thu phương thức và công nghệ sản xuất mới.
Thứ ba, thiếu vắng lực lượng doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn, đủ mạnh để dẫn dắt khu vực DNNVV tham gia chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế, hiện tại, trong số các doanh nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam, thì các doanh nghiệp có quy mô lớn và vừa chỉ chiếm khoảng 3,67%[2], trong khi quy mô doanh nghiệp có vai trò quyết định đến khả năng tận dụng được những lợi thế theo quy tắc “kinh tế quy mô”, như: Chi phí trung bình thấp hơn, chi phí biên thấp hơn giúp doanh nghiệp tăng khả năng tham gia vào mạng lưới sản xuất.
Bên cạnh đó, sự hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế tư nhân ở Việt Nam chủ yếu được hình thành sau một giai đoạn tích lũy ngắn ngủi, dựa vào vốn tự có và ít được Nhà nước hỗ trợ. Quá trình phát triển theo mô hình tập đoàn của nhóm các tập đoàn kinh tế tư nhân hiện gặp phải một số khó khăn về quản trị, mô hình, do phần lớn phát triển từ quy mô doanh nghiệp gia đình. Các liên kết trong mô hình tập đoàn còn khá đơn giản, chưa triển khai được các hình thức liên kết “mềm” khác thông qua thỏa thuận, hợp tác sử dụng thương hiệu, dịch vụ, kết quả nghiên cứu đổi mới, ứng dụng khoa học, công nghệ chung trong tập đoàn theo nguyên tắc thị trường. Lĩnh vực hoạt động của các tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân mới chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực như dịch vụ, kinh doanh bất động sản…
Thứ tư, năng suất của khu vực DNNVV còn thấp: Theo đánh giá tại Báo cáo Việt Nam 2035[3], từ sau năm 2000, tăng trưởng năng suất giảm ở hầu hết các khu vực. Mặc dù con số doanh nghiệp tăng lên nhưng năng suất tài sản cấp doanh nghiệp của khu vực DNNVV lại giảm mạnh xuống đến mức gần như không có khoảng cách giữa năng suất lao động và tài sản trong khu vực tư nhân trong nước và doanh nghiệp nhà nước. Hầu hết các DNNVV có quy mô nhỏ, do đó không thể tăng năng suất lao động nhờ chuyên môn hóa hay tận dụng lợi thế quy mô được. Qua tính toán từ kết quả điều tra doanh nghiệp cho thấy, năng suất lao động (NSLĐ) bình quân toàn bộ khu vực doanh nghiệp năm 2015 theo giá hiện hành đạt 254,6 triệu đồng/lao động, cao gấp 3,2 lần NSLĐ của toàn nền kinh tế nhưng tăng trưởng thấp hơn so với mức tăng NSLĐ chung: Bình quân giai đoạn 2011 - 2015, NSLĐ khu vực doanh nghiệp (theo giá hiện hành) tăng 5,1%/năm, trong khi năng suất lao động của toàn nền kinh tế tăng 9,5%/năm[4].
Thứ năm, năng lực cạnh tranh của DNNVV còn yếu: Do quy mô nhỏ bé nên DNNVV Việt Nam gặp phải những hạn chế cố hữu, như công nghệ lạc hậu, nguồn vốn hạn chế, trình độ quản lý thấp, nguồn nhân lực yếu cả về lượng và chất. Đa số các DNNVV có cách thức quản lý, quản trị mang tính gia đình, chưa có tầm nhìn, chiến lược kinh doanh dài hạn và thiếu sản phẩm mũi nhọn có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Có thể thấy trong giai đoạn 2012 - 2015, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, bộc lộ rất rõ qua những con số về nợ xấu, tồn đọng sản phẩm, không phát triển được thị trường…
Thứ sáu, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún: Đa số các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân có quy mô nhỏ, thậm chí siêu nhỏ nên khả năng tích tụ và tập trung vốn để đầu tư, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất… hầu như không có. Mặc dù, số lượng các DNNVV chiếm đến hơn 97,7%[5] tổng số doanh nghiệp nhưng chiếm tỷ trọng về doanh thu, tài sản cố định và đầu tư dài hạn của doanh nghiệp chưa tương xứng.
Thứ bảy, máy móc, thiết bị và công nghệ lạc hậu: Phần lớn máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ của DNNVV còn lạc hậu. Đa số đang sử dụng công nghệ tụt hậu 2 - 3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới. Đây là nguyên nhân làm cho trong một thời gian dài khu vực kinh tế tư nhân trong đó chủ yếu là các DNNVV chưa phát triển được như kỳ vọng.
1.2. Một số nguyên nhân chủ yếu
- Mặc dù thời gian qua nhiều cơ chế chính sách đã được ban hành, tương đối đầy đủ tạo hành lang thông thoáng, hỗ trợ cho hoạt động của các DNNVV, song chậm được triển khai nên đã làm mất đi nhiều cơ hội của các DNNVV (do không tiếp cận được các ưu đãi từ các chính sách đã ban hành), các chính sách trở nên lạc hậu với tình hình thực tiễn, cần phải điều chỉnh, bổ sung...
- Các chính sách khuyến khích đầu tư còn riêng rẽ, manh mún, mới tập trung ưu đãi đầu tư theo chiều rộng, chưa tạo được tác động mong muốn đối với mục tiêu chính sách. Do thực hiện cơ chế quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ, nên dẫn đến cùng một đối tượng điều chỉnh song phải tuân thủ nhiều văn bản khác nhau theo dõi, quản lý thực hiện. Chính cơ chế này đã làm cho doanh nghiệp rất khó tìm hiểu nắm bắt và tiếp cận các ưu đãi của chính sách. Một số chính sách ưu đãi chưa đủ hấp dẫn để khuyến khích doanh nhân đầu tư vốn kinh doanh ở các vùng khó khăn và kém lợi thế.
- Các cấp chính quyền một số địa phương vẫn còn lúng túng trong việc đưa ra các biện pháp hỗ trợ cụ thể đối với doanh nghiệp, doanh nhân, đặc biệt là đối với khu vực DNNVV. Việc giám sát đánh giá thực thi chính sách còn hạn chế dẫn đến nhiều hạng mục trong các kế hoạch hỗ trợ phát triển doanh nghiệp không hoàn thành đúng thời hạn.
- Mặc dù nhận thức của các cấp, ngành đối với vai trò của khu vực DNNVV đã có những chuyển biến nhưng vẫn chưa được đề cao. Thực tế, tình trạng phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp dân doanh với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI vẫn còn phổ biến không chỉ trong các cơ quan hành chính nhà nước mà ở trong đời sống kinh tế - xã hội hàng ngày. Do đó, doanh nghiệp dân doanh chưa thực sự được bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực, nhất là vốn và đất đai.
- Việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi còn chưa đồng bộ, thiếu minh bạch; một số bộ luật quan trọng có liên quan trực tiếp đến phát triển doanh nghiệp, doanh nhân thực thi chưa đạt hiệu quả cao. Cải cách hành chính chưa triệt để, còn nhiều thủ tục gây phiền hà cho doanh nghiệp, doanh nhân; tình trạng “Giấy phép con”, điều kiện kinh doanh vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực. Bộ máy hành chính và năng lực đội ngũ công chức còn nhiều hạn chế, công cuộc cải cách hành chính chưa đáp ứng kỳ vọng của cộng đồng doanh nghiệp.
2. Nhu cầu cần hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021 - 2026
Một là, hỗ trợ về thuế
Các chính sách hỗ trợ về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế cho nhà đầu tư khởi nghiệp sáng tạo... đã được quy định tại Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng chưa thể áp dụng ngay trên thực tế vì cần phải sửa các luật khác liên quan đến thuế, đầu tư, đất đai... Doanh nghiệp kiến nghị, Quốc hội sớm đưa chương trình sửa Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đất đai vào chương trình xây dựng của Quốc hội ngay từ đầu nhiệm kỳ giai đoạn 2021 - 2026.
Hai là, về chính sách cấp bù lãi suất
Theo quy định tại Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Chính phủ có thẩm quyền ban hành chính sách cấp bù lãi suất cho các khoản vay của DNNVV khởi nghiệp sáng tạo, DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Tuy nhiên, Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (Nghị định số 39/2018/NĐ-CP) không quy định nội dung chính sách cấp bù lãi suất hỗ trợ DNNVV (đối tượng, mức cấp bù, phương thức bù, điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ cấp bù...) nên Bộ Tài chính không có cơ sở để hướng dẫn chính sách cấp bù lãi suất. Do đó, doanh nghiệp kiến nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị Chính phủ thay thế Nghị định số 39/2018/NĐ-CP trong năm 2020 để bảo đảm triển khai các ưu đãi về cấp bù lãi suất.
Ba là, chính sách về hỗ trợ mặt bằng sản xuất
Doanh nghiệp đề nghị cấp Chính quyền cấp tỉnh cần bố trí quỹ đất để hình thành, phát triển cụm công nghiệp; khu chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản, hải sản tập trung cho DNNVV, đây được coi là nhu cầu rất lớn của các doanh nghiệp hoạt động sản xuất.
Bốn là, chính sách hỗ trợ mở rộng thị trường
Hiện nay, quy định liên quan đến việc thành lập chuỗi phân phối sản phẩm cho DNNVV đang thiếu vắng cả về cơ chế thủ tục thành lập và cơ chế ưu đãi. Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sớm có hướng dẫn về ưu đãi cho nhà đầu tư tham gia thành lập chuỗi phân phối sản phẩm. Bộ Công Thương sớm có văn bản hướng dẫn các DNNVV tham gia vào chuỗi phân phối sản phẩm trong nước, tham gia các hoạt động, sự kiện giao dịch thương mại, kết nối DNNVV, đồng thời đẩy mạnh tổ chức các hoạt động truyền thông, quảng bá, tôn vinh hàng hóa sản xuất trong nước, hàng thực phẩm an toàn, hỗ trợ, tập huấn, đào tạo kiến thức cho các hộ kinh doanh, kiến thức an toàn thực phẩm cho doanh nghiệp, tổ chức các sự kiện giao dịch thương mại, kết nối DNNVV với chuỗi phân phối sản phẩm trong nước.
Năm là, nhu cầu về đào tạo nghề, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực luôn là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc liên kết giữa đào tạo và sử dụng đang có vấn đề khập khiễng. Chính phủ cần có cơ chế để các doanh nghiệp sẵn sàng mở cửa để đón nhận lực lượng lao động do chính các cơ sở đào tạo kể cả chính quy, đại học cho đến nghề nghiệp. Nhà nước cần có giải pháp cho doanh nghiệp nhìn thấy lợi ích thật sự nếu họ sử dụng nguồn lao động của Nhà nước đào tạo ra, cần xây dựng cơ chế điều phối, phối hợp 3 bên giữa Nhà nước - nhà trường - nhà doanh nghiệp trong đào tạo nghề cho người lao động. Nhà nước phải giữ vai trò điều phối bằng các chính sách, trong đó, phân định rõ nội dung thực hiện quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp đối với hoạt động đào tạo.
Trong khi chờ các chính sách của nhà nước, thì điều quan trọng là các cơ sở giáo dục nghề nghiệp không nên ngồi chờ doanh nghiệp đến với mình, mà cần chủ động tìm đến doanh nghiệp. Các trường nên đưa ra chương trình, cách đào tạo thực tế, chất lượng để thuyết phục, mời gọi doanh nghiệp tham gia.
Sáu là, nhu cầu về tiếp cận thông tin, chính sách pháp luật, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
Trong quá trình hội nhập, các DNNVV phải tiếp cận rất nhiều các tiêu chuẩn, quy chuẩn, nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm hàng hóa liên thông quốc tế, các thông lệ kinh doanh thương mại quốc tế. Tuy nhiên, phần lớn là do chủ quan, các DNNVV chưa thực sự tìm hiểu các chính sách pháp luật và thông lệ quốc tế để nâng cao năng lực của chính mình trong kinh doanh. Đây là vấn đề rất đáng lưu tâm, đòi hỏi cả Nhà nước và doanh nghiệp phải có những giải pháp tăng cường năng lực tiếp cận với các thông tin, chính sách pháp luật và thông lệ quốc tế trong kinh doanh cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp đề nghị Bộ Tư pháp sớm trình Chính phủ kế hoạch hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn 2021 - 2026.
Bảy là, nhu cầu tiếp cận các dịch vụ hành chính công, thông tin về mở cửa thị trường, thông tin về khoa học công nghệ
Đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ sớm hướng dẫn việc thành lập cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung theo quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, ban hành tiêu chí công nhận tổ chức, cá nhân đủ điều kiện hoạt động dịch vụ chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực khoa học công nghệ nhằm hỗ trợ DNNVV, đẩy mạnh triển khai có hiệu quả Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2026, hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước đối với hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, rà soát, xây dựng cơ sở dữ liệu các tổ chức khoa học và công nghệ, trung tâm nghiên cứu, vườn ươm công nghệ, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo công lập và ngoài công lập trên cả nước.
Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
Nguyễn Văn Hoàn
Công ty TNHH Nguyễn Hoàn
[1]. Báo cáo số 150/BC-TCTK ngày 27/9/2019 của Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
[2]. Phân tích từ số liệu điều tra doanh nghiệp hàng năm của Tổng cục Thống kê.
[3]. Báo cáo Việt Nam 2035, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Thế giới.
[4]. Báo cáo Năng suất lao động của Việt Nam và giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng năng suất lao động, Tổng cục Thống kê, tháng 4/2018.
[5]. Báo cáo số 150/BC-TCTK ngày 27/9/2019 của Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.