1. Doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh phục hồi sau đại dịch Covid-19
Ngày 12/5/2022, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động và huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty trong phát triển kinh tế - xã hội (Nghị quyết số 68/NQ-CP). Nghị quyết số 68/NQ-CP nêu rõ, khu vực doanh nghiệp nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch Covid-19 và những biến động trong khu vực và quốc tế, doanh nghiệp nhà nước đã tích cực triển khai và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất là trong công tác đầu tư nhằm khơi thông nguồn lực, phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, hội đồng thành viên, người đại diện phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp khẩn trương quán triệt, thực hiện quyết liệt, hiệu quả những nội dung sau: (i) Đến hết năm 2025, phấn đấu 100% tập đoàn kinh tế, tổng công ty có dự án triển khai mới, trong đó có một số dự án đầu tư tiêu biểu, có tính chất dẫn dắt, lan tỏa, mang thương hiệu của doanh nghiệp nhà nước; (ii) Có ít nhất 25 doanh nghiệp nhà nước có vốn chủ sở hữu hoặc vốn hóa trên thị trường chứng khoán đạt trên 01 tỷ đô la Mỹ, trong đó, có ít nhất 10 doanh nghiệp đạt mức trên 05 tỷ đô la Mỹ; 100% doanh nghiệp nhà nước có định hướng và thực hiện chuyển dịch đầu tư, hướng đến các dự án đầu tư, sử dụng công nghệ xanh, sạch và giảm thải khí carbon; (iii) Đóng góp của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước vào ngân sách nhà nước bình quân giai đoạn 2021 - 2025 tăng khoảng 5% - 10% so với giai đoạn 2016 - 2020. Trên cơ sở đó, để doanh nghiệp nhà nước phục hồi và phát triển mạnh trong bối cảnh hậu Covid-19 trong giai đoạn tới, Nghị quyết số 68/NQ-CP xác định:
Thứ nhất, đẩy mạnh huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực; gắn chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhà nước với phát triển ngành, lĩnh vực để phát huy nguồn lực quan trọng của đất nước. Khẩn trương xây dựng và trình cấp có thẩm quyền chiến lược, kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty phù hợp với quy hoạch, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, giao nhiệm vụ cho doanh nghiệp nhà nước triển khai nghiên cứu đầu tư một số dự án quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững, phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa như: Năng lượng (trong đó ưu tiên năng lượng tái tạo, năng lượng sạch), công nghiệp bán dẫn, đầu tư hạ tầng giao thông quan trọng quốc gia (như đường cao tốc, đường sắt, cảng hàng không, cảng biển...), hạ tầng chuyển đổi số, hạ tầng ứng phó biến đổi khí hậu, cung ứng các nguyên vật liệu đầu vào quan trọng cho sản xuất (như luyện thép, hóa dầu)... trên cơ sở thế mạnh, ngành nghề kinh doanh chính của doanh nghiệp. Xây dựng cơ chế khuyến khích phối hợp, hợp tác giữa doanh nghiệp nhà nước với nhau và với các doanh nghiệp tư nhân để thực hiện các dự án quy mô lớn, nâng cao hiệu quả tổng thể chuỗi dự án nhằm phát triển chuỗi giá trị của ngành, lĩnh vực, mở rộng không gian kinh doanh trên nguyên tắc các bên cùng đạt hiệu quả. Nghiên cứu, nâng cao vai trò của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước, nhất là vai trò là nhà đầu tư của Chính phủ để thu hút thêm nguồn lực tài chính vào các doanh nghiệp, dự án lớn, quan trọng.
Thứ hai, giải quyết dứt điểm tình trạng đầu tư dàn trải.
Rà soát, tinh giản bộ máy; thiết lập hệ thống quản trị, kiểm soát nội bộ có hiệu quả. Kiên quyết phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, xung đột lợi ích, tình trạng móc ngoặc, hình thành “lợi ích nhóm”, “sân sau”, lạm dụng chức vụ, quyền hạn thao túng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, trục lợi cá nhân, tham nhũng, lãng phí, gây tổn hại cho Nhà nước và doanh nghiệp. Chú trọng nâng cao giá trị thương hiệu, đạo đức kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp; tiết kiệm tối đa chi phí, tối ưu hóa các nguồn lực về vốn, đất đai... của doanh nghiệp nhà nước, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ, đẩy mạnh xây dựng uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp nhà nước trên thị trường trong nước và quốc tế. Tăng cường áp dụng mô hình kinh doanh mới, sử dụng tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường để nâng cao năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh. Giải quyết dứt điểm tình trạng đầu tư dàn trải, ngoài ngành, lĩnh vực kinh doanh chính thông qua việc thoái vốn, bảo đảm các doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chính, cụ thể như sau:
- Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chi phối trong các ngành, lĩnh vực quan trọng, đặc biệt lĩnh vực tạo lập kết cấu hạ tầng cho tăng trưởng.
Trong nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng của quốc gia, như năng lượng, tài chính tín dụng, ngân hàng, viễn thông, xuất khẩu lương thực, dịch vụ cảng hàng không..., doanh nghiệp nhà nước có ảnh hưởng lớn, thậm chí là chi phối. Hiện nay, Việt Nam chủ yếu dựa vào nguồn lực của Nhà nước để đầu tư mở rộng kết cấu hạ tầng, đầu tư tư nhân vào kết cấu hạ tầng còn thấp, chỉ dưới 1% GDP trong thập kỷ qua. Theo thống kê, có khoảng 90% các dự án kết cấu hạ tầng ở Việt Nam do Nhà nước đầu tư. Nguồn vốn đầu tư đến từ hỗ trợ ngân sách trực tiếp, vốn của các doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhà nước vay vốn... chiếm tỷ trọng lớn. Chính những nguồn đầu tư này đã góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh của nền kinh tế.
- Doanh nghiệp nhà nước có đóng góp quan trọng cho tăng trưởng phát triển kinh tế - xã hội, chiếm tỷ lệ lớn trong thu ngân sách và bảo đảm việc làm cho người lao động.
Đến nay, với quá trình đẩy mạnh cổ phần hóa, số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm dần, song vẫn nắm giữ nguồn lực lớn về vốn, tài sản, tạo nguồn doanh thu và đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước. So với toàn bộ hệ thống doanh nghiệp, khu vực doanh nghiệp nhà nước đóng góp 28% cho tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm cho 1,2 triệu lao động (8,3%); chiếm 29% tổng vốn của toàn khu vực doanh nghiệp và tạo ra 22,9% lợi nhuận so với lợi nhuận của toàn khu vực doanh nghiệp.
Theo thống kê năm 2020, tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có lãi đạt 47,3%, trong đó, doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có lãi chiếm 83,5% trong khối này, doanh nghiệp FDI là 54,4% và thấp nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước với 47%. Nhìn lại khoảng gần 10 năm trước (từ năm 2012), tỷ lệ doanh nghiệp nhà nước làm ăn có lãi chỉ đạt khoảng 30%. Mặc dù tỷ lệ đóng góp vào ngân sách, tạo việc làm và góp phần thúc đẩy tăng trưởng của doanh nghiệp nhà nước những năm gần đây có giảm (gắn với giảm số lượng doanh nghiệp), song vẫn giữ tỷ lệ không nhỏ.
- Doanh nghiệp nhà nước đi đầu trong đầu tư vào những vùng khó khăn, những lĩnh vực đầu tư có tỷ suất lợi nhuận thấp qua đó thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, kiến tạo nền tảng phát triển.
Để thúc đẩy và hỗ trợ các hoạt động đầu tư này, Việt Nam có nhiều chính sách khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực, vùng còn khó khăn, kém phát triển. Đặc biệt, kể từ ngày 01/7/2015, các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện khó khăn được áp dụng mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; đồng thời miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định, các nguyên liệu, vật tư, linh kiện để thực hiện dự án đầu tư. Miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất. Doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn đặc biệt khó khăn được miễn giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất theo pháp luật về đất đai. Nếu không có đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, khó có thể cải thiện điều kiện sống của dân cư, khơi dậy và phát huy tiềm năng của vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo… trong chiến lược phát triển chung của cả nước.
- Ngoài các nhiệm vụ kinh doanh, doanh nghiệp nhà nước còn thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội, tham gia các hoạt động hỗ trợ cộng đồng, góp phần thực hiện công tác an sinh xã hội.
Bên cạnh nhiệm vụ kinh doanh, các doanh nghiệp này luôn đề cao vai trò, trách nhiệm thực hiện an sinh xã hội của mình đối với người lao động trong doanh nghiệp và cộng đồng, bảo đảm thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống người lao động trong doanh nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước chủ động hỗ trợ cộng đồng thông qua các chương trình vận động của các tổ chức xã hội, nhất là của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thực hiện tốt các chương trình này cũng chính là góp phần triển khai chủ trương tăng trưởng đi liền với tiến bộ, công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới
Theo khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020, doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định tại Điều 88 Luật Doanh nghiệp năm 2020 (theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ). Như vậy, từ ngày 01/01/2021, các doanh nghiệp thuộc một trong các trường hợp sau đây sẽ được xem là doanh nghiệp nhà nước:
- Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, bao gồm:
(i) Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ - công ty con;
(ii) Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là công ty độc lập do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
- Doanh nghiệp có thành viên là Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết, bao gồm:
(i) Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, công ty mẹ của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ trong nhóm công ty mẹ - công ty con;
(ii) Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần là công ty độc lập do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.
Theo đó, khái niệm doanh nghiệp nhà nước nêu trên đã có sự thay đổi lớn so với khái niệm doanh nghiệp nhà nước tại Luật Doanh nghiệp năm 2014. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, doanh nghiệp nhà nước là khi nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Còn theo Luật Doanh nghiệp năm 2020, doanh nghiệp nhà nước được phân chia theo nhiều mức độ sở hữu bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết. Như vậy, quy định về doanh nghiệp nhà nước đã được nới lỏng hơn rất nhiều, tạo điều kiện cho những cá nhân, tổ chức khác được quyền hợp tác kinh doanh; cùng phát triển, sản xuất; đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên và tiếp tục xây dựng, phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở Luật Doanh nghiệp năm 2020 và trong bối cảnh hiện nay, về thể chế, hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước đã được ban hành đầy đủ, đồng bộ, thống nhất. Vấn đề cấp bách hiện nay là cần đổi mới nhận thức, sự lãnh đạo về vai trò của khu vực doanh nghiệp nhà nước đi liền với đó là hệ giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của khu vực này, vì vậy, tác giả đề xuất, kiến nghị cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính trong quản lý, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, tăng cường kiểm tra, giám sát; thực hiện nghiêm các nguyên tắc lãnh đạo của Đảng để thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao; đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, góp phần giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước có năng lực, phẩm chất, uy tín ngang tầm nhiệm vụ và quy chế đánh giá cán bộ phù hợp; nghiên cứu cơ chế, chính sách bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung, cùng cơ chế đãi ngộ phù hợp cơ chế thị trường và điều kiện, hoàn cảnh đất nước, cân đối hài hòa với đội ngũ cán bộ trong các ngành, lĩnh vực.
Thứ hai, trong điều kiện hiện nay và cũng phù hợp với xu thế phát triển chung, doanh nghiệp nhà nước không cần nắm hầu như mọi lĩnh vực, mọi ngành sản xuất, mà chỉ giữ vai trò then chốt ở những ngành kinh tế chủ đạo, trụ cột, ngành liên quan tới quốc phòng - an ninh, cùng với đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại để thực sự giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, theo đó, cần đi tiên phong trong đầu tư ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, đẩy nhanh quá trình số hóa; tham gia sản xuất và cung ứng một số loại hàng hóa và dịch vụ có những đặc thù nhất định mà khu vực tư nhân không muốn tham gia; tiếp tục đi đầu trong đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa, khó khăn; đầu tư phát triển lĩnh vực liên quan đến quốc phòng - an ninh; ở các lĩnh vực khác nếu tư nhân làm tốt cần có cơ chế để thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân trong nước chiếm lĩnh thị trường.
Thứ ba, tiếp tục và quyết liệt (có thời hạn cụ thể cho các doanh nghiệp nhà nước) thúc đẩy cổ phần hóa và thoái vốn đầu tư ngoài ngành của các doanh nghiệp nhà nước. Để làm điều này, cần sớm luật hóa chính sách thu cổ tức, lợi nhuận từ vốn đầu tư tại doanh nghiệp nhà nước và các nội dung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; bảo đảm sự công khai, minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc của thị trường, tạo sự bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Bên cạnh việc xác định các cổ đông chiến lược trong cổ phần hóa, cần hỗ trợ và thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước có thể tiếp cận và kinh doanh ở những lĩnh vực mà doanh nghiệp nhà nước rút lui, đẩy mạnh quá trình chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp tư nhân nội địa.
Thứ tư, để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, cần có quy định minh bạch giữa nhiệm vụ kinh doanh, phát triển kinh tế với các nhiệm vụ chính trị - xã hội của đất nước. Bản thân doanh nghiệp nhà nước là một nguồn lực, là công cụ của Nhà nước trong tham gia bình ổn, định hướng sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cần có quy định rõ ràng để hạch toán hiệu quả, phản ánh đúng thực chất sự phát triển của doanh nghiệp; không vì gánh vác nhiệm vụ chính trị - xã hội dẫn đến khó khăn trong hoạt động hạch toán kinh doanh.
Thứ năm, đẩy mạnh hoạt động đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng, nhất là việc nghiên cứu và áp dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Thực hiện hiệu quả và đồng bộ các cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp, đặc biệt là chính sách hỗ trợ về tài chính nhằm thúc đẩy doanh nghiệp triển khai các hoạt động đổi mới công nghệ và cải thiện năng lực quản trị công nghệ. Chú trọng tổ chức đào tạo về quản lý công nghệ và cập nhật công nghệ mới cho doanh nghiệp. Tăng cường bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về đổi mới công nghệ cho cán bộ quản lý doanh nghiệp. Hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm, ứng dụng công nghệ tiên tiến, đào tạo, thuê chuyên gia thiết kế, sản xuất sản phẩm mới và thay đổi quy trình công nghệ. Hình thành các cơ sở ươm tạo doanh nghiệp khoa học - công nghệ thực hiện nghiên cứu và ứng dụng sản xuất sản phẩm mới. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác với các tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài phát triển công nghệ, tham gia các triển lãm, hội chợ công nghệ và thiết bị ở nước ngoài. Tổ chức, phối hợp và hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc hợp tác với các tổ chức và cá nhân hoạt động khoa học - công nghệ để tiến tới làm chủ công nghệ nhập khẩu, qua đó, nâng cao tính tự chủ và khả năng quản trị công nghệ.
Thứ sáu, đổi mới cơ chế quản trị doanh nghiệp nhà nước theo hướng hiện đại so với các nước có nền kinh tế phát triển, phù hợp với những chuẩn mực quốc tế. Thực tế trong những năm qua, hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng sụt giảm liên tục, trong bối cảnh nền kinh tế đang trên đà phục hồi và chất lượng tăng trưởng chung của nền kinh tế đang được cải thiện, thì điều đó đang diễn ra ngược với xu thế chung. Điều này cho thấy, những yếu kém của khu vực doanh nghiệp nhà nước chủ yếu là vấn đề nội tại của khu vực này chứ không phải do những tác động từ môi trường bên ngoài. Một trong những lý do là năng lực quản trị còn yếu kém, cơ chế quản trị chậm được đổi mới, chưa phù hợp với thông lệ, chuẩn mực phổ biến của quốc tế, tính công khai, minh bạch còn hạn chế. Công tác cán bộ, chính sách tiền lương, thưởng của doanh nghiệp nhà nước chưa gắn rõ với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp theo cơ chế thị trường, chưa khuyến khích được người lao động tăng năng suất. Doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự được bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo cơ chế thị trường. Điều đó đòi hỏi cần khẩn trương nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp nhà nước, phù hợp với trình độ quản trị bậc cao của mô hình tập đoàn kinh tế, bằng phương pháp quản trị hiện đại, nâng cao tính tự chủ để nâng cao tính cạnh tranh; cần đặt ra chỉ số hiệu quả trong quản lý doanh nghiệp nhà nước.
Mục tiêu đến năm 2025, phấn đấu cơ bản hoàn thành việc sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu khối doanh nghiệp nhà nước; xử lý cơ bản xong những yếu kém, thất thoát, những dự án, công trình chậm tiến độ, đầu tư kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước; vừa phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, vừa khắc phục, xử lý các công việc, nhiệm vụ tồn đọng, vừa giải quyết các vấn đề đột xuất, phát sinh. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, các doanh nghiệp nhà nước cũng phải góp phần quan trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay là ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, trong đó, thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, an toàn, thận trọng, chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, bảo đảm hiệu quả, quản lý chặt chẽ giá cả, thị trường; phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Trưởng Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh Nghệ An