Hiến pháp năm 2013 và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 đã thể chế hóa chủ trương của Đảng nêu tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI: “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục khắc phục tình trạng hành chính hóa, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh…”1; thể thể hóa Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội theo Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị. Đồng thời cụ thể hóa một số nội dung trong Nghị quyết số 85/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để đưa những quy định này vào cuộc sống để hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Mặt trận) hiệu quả, khả thi theo đúng tinh thần chỉ đạo của Đảng.
1. Thực trạng hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc theo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1999
1.1. Giám sát đối với hoạt động của tổ chức Đảng, đảng viên
Trước khi có Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 thì chưa có văn bản nào của Đảng quy định cụ thể về đối tượng, phạm vi, nội dung, hình thức và cơ chế giám sát đối với tổ chức Đảng, đảng viên, mà chủ yếu là mang tính nguyên tắc chung quy định trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. Do vậy, giám sát của Mặt trận các cấp cũng chỉ dừng lại ở hoạt động góp ý kiến, kiến nghị vào dự thảo các văn kiện của các cấp ủy Đảng trước khi trình Đại hội Đảng các cấp; các dự thảo nghị quyết, quyết định, chỉ thị của cấp ủy Đảng có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người dân, đến quyền và trách nhiệm của Mặt trận và đề án nhân sự của cấp ủy Đảng trước khi trình ra Đại hội (khi Đảng có yêu cầu). Việc giám sát hoạt động của đảng viên chủ yếu gắn cùng với giám sát cán bộ, công chức ở khu dân cư. Còn việc giám sát hoạt động của tổ chức Đảng trong việc thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước thì Mặt trận chưa thực hiện được.
1.2. Giám sát hoạt động của cơ quan dân cử và đại biểu dân cử
Hoạt động của các cơ quan dân cử thuộc đối tượng giám sát của Mặt trận các cấp tập trung vào ba lĩnh vực: Hoạt động xây dựng pháp luật; quyết định những vấn đề phát triển kinh tế - xã hội quan trọng và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của cử tri, nhân dân. Trong ba lĩnh vực nêu trên, việc giám sát hoạt động xây dựng pháp luật có nhiều tiến bộ. Đại diện Ủy ban Trung ương Mặt trận được mời tham gia các ban soạn thảo, tổ biên tập nhiều dự án luật, pháp lệnh như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Thi hành án hình sự, Luật Khiếu nại, tố cáo... Trên cơ sở Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trung bình mỗi năm, Ủy ban Trung ương Mặt trận tham gia góp ý kiến khoảng 20 dự án luật, pháp lệnh và nghị định2. Mặt trận các cấp cũng đã có nhiều kiến nghị đối với các cấp có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Việc giám sát của Mặt trận và các thành viên góp phần làm giảm những sai sót trong xây dựng pháp luật, tăng tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật. Tại các kỳ họp Quốc hội khóa XI, khoá XII, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận đã phối hợp với Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổng hợp những ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân cả nước để trình bày trước Quốc hội, kiến nghị những vấn đề thuộc trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét giải quyết; kiến nghị Chính phủ chỉ đạo khắc phục những yếu kém trong điều hành, quản lý trên các lĩnh vực của đời sống xã hội để sớm có giải pháp khắc phục, đáp ứng những nguyện vọng chính đáng của nhân dân; kiến nghị Tòa án, Viện kiểm sát và các cơ quan tiến hành tố tụng khắc phục án tồn đọng và những vụ điều tra, truy tố, xét xử oan, sai gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức.
Về giám sát hoạt động của đại biểu dân cử, bằng những hình thức như tổ chức các cuộc tiếp xúc giữa đại biểu dân cử với cử tri nơi bầu ra họ, thông qua việc phản ánh của cử tri và nhân dân về hoạt động của đại biểu nói chung, về tư cách đạo đức, sự tín nhiệm nói riêng, thông qua kết luận của các cơ quan chuyên trách có thẩm quyền về các sai phạm của đại biểu, Mặt trận các cấp có thể xem xét, đánh giá việc thực hiện các nhiệm vụ của đại biểu theo quy định của pháp luật. Trường hợp đại biểu có hành vi vi phạm pháp luật, không còn được nhân dân tín nhiệm thì Ủy ban Mặt trận có văn bản đề nghị Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân xem xét để quyết định việc miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm. Thực tiễn nhiều năm qua cho thấy đã có một số đại biểu Quốc hội và không ít đại biểu Hội đồng nhân dân vi phạm pháp luật, bị bãi nhiệm theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận các cấp.
Hàng năm, Mặt trận chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức các cuộc tiếp xúc trước và sau mỗi kỳ họp đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân để đại biểu được tiếp xúc với cử tri, Mặt trận tập hợp những ý kiến, kiến nghị của cử tri, kiến nghị với các cơ quan của Đảng, Nhà nước xem xét giải quyết và trả lời cho cử tri được biết. Cũng thông qua những hoạt động này mà Mặt trận các cấp đã nắm được những hoạt động của đại biểu để kịp thời nhận xét, góp ý kiến với Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quy chế phối hợp công tác giữa Ủy ban Mặt trận với Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân được ban hành ở nhiều nơi đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giám sát của Mặt trận và việc giám sát của đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
1.3. Giám sát đối với các cơ quan hành chính nhà nước
Việc cử đại diện tham gia các đoàn giám sát do Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân tiến hành đã giúp Ủy ban Mặt trận phát hiện và kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, xử lý những vi phạm pháp luật trong hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước... Thông qua hoạt động tập hợp ý kiến, kiến nghị tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; tiếp dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, Mặt trận đã phát hiện những yếu kém, sai sót, thậm chí thiếu trách nhiệm trong quản lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ, gây phiền hà, thiệt hại cho dân, từ đó kịp thời có văn bản kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét giải quyết và giám sát việc giải quyết đó.
1.4. Giám sát hoạt động tư pháp
Công tác giám sát của Mặt trận trong lĩnh vực hoạt động tư pháp được thực hiện tương đối đa dạng. Mặt trận, các tổ chức thành viên của Mặt trận đã tích cực tham gia và có nhiều đóng góp vào các hoạt động như tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên; giới thiệu hội thẩm nhân dân; tham gia công tác đặc xá, giáo dục, cảm hóa người phạm tội; giúp đỡ người đã chấp hành xong hình phạt tù tái hòa nhập cộng đồng; tiếp nhận và đề nghị giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo có liên quan đến hoạt động tư pháp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân. Theo số liệu thống kê, từ năm 2005 đến năm 2013, Ủy ban Mặt trận các cấp đã phối hợp giám sát đối với cơ quan tiến hành tố tụng 15.567 lượt; giám sát đối với người tiến hành tố tụng 254 lượt; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo 32.207 lượt3.
1.5. Giám sát việc thực thi chính sách pháp luật
Mặt trận giám sát việc thi hành chính sách, pháp luật chủ yếu thông qua các hoạt động thực tiễn của Mặt trận. Thông qua các cuộc vận động mà Mặt trận phát hiện những chính sách, pháp luật có được thực thi không, pháp luật có phù hợp với thực tiễn không. Trên cơ sở đó, Mặt trận đề nghị với Nhà nước xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành chính sách, pháp luật cho phù hợp với thực tiễn của đời sống xã hội. Hình thức của hoạt động giám sát này ở cơ sở chủ yếu thông qua hoạt động giám sát của Ban Thanh tra nhân dân ở cấp xã và Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng. Thanh tra nhân dân đóng vai trò nòng cốt giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật ở cơ sở; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn; hỗ trợ và tạo điều kiện để Thanh tra Nhà nước kiểm tra các vụ việc ở cơ sở. Theo số liệu thống kê, trong khoảng 05 năm trở lại đây, Thanh tra nhân dân các địa phương đã kiến nghị chính quyền giải quyết được 76.766 đơn khiếu nại, đạt 80,22% và 8.290 đơn tố cáo, đạt 63,92%4. Có thể thấy rằng, qua giám sát việc triển khai quy chế dân chủ ở cơ sở cho thấy, vai trò của Ban Thanh tra nhân dân rất quan trọng, giúp chính quyền địa phương khắc phục những thiếu sót trong công tác quản lý, chấn chỉnh những tiêu cực của cán bộ, góp phần xây dựng chính quyền ở cơ sở trong sạch, vững mạnh. Hoạt động giám sát đầu tư của cộng đồng bảo đảm cho các hoạt động đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là đối với việc đầu tư các công trình liên quan trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội của địa bàn dân cư được tiến hành đúng quy định, có giấy phép đầu tư và bảo đảm chất lượng công trình.
1.6. Giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo
Mặt trận thực hiện giám sát thông qua việc tiếp dân và tham gia giải quyết đối với những đơn thư khiếu nại, tố cáo có liên quan đến những đối tượng do Mặt trận trực tiếp vận động, đến cán bộ của Mặt trận và những trường hợp vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đối với những trường hợp gây bức xúc trong nhân dân, Mặt trận cử cán bộ có chuyên môn trực tiếp tìm hiểu vụ việc, gặp gỡ các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và có văn bản kiến nghị thể hiện chính kiến rõ ràng đến cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
1.7. Giám sát đối với cán bộ, công chức và đảng viên
Hoạt động giám sát của Mặt trận chủ yếu tập trung ở cơ sở theo quy định của Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007, Luật Thanh tra năm 2010 (phần quy định về hoạt động giám sát của Ban Thanh tra nhân dân) và Quy chế Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư ban hành kèm theo Nghị quyết liên tịch số 05/2006/NQLT/CP-UBTWMTTQVN ngày 21/4/2006 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Biểu hiện rõ nhất là việc Mặt trận thực hiện lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã. Từ năm 2005 đến nay, các địa phương đã tổ chức thường xuyên và đều đặn hai năm một lần việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm cho thấy số người không đạt tín nhiệm trên 50% không phải là ít, chiếm đến từ 0,6% đến 1% trên tổng số khoảng 20.000 người được đưa lấy phiếu tín nhiệm. Dựa trên kết quả lấy phiếu tín nhiệm, Ủy ban Mặt trận đã kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý. Hầu hết các trường hợp có số phiếu tín nhiệm thấp dưới 50% thì Ủy ban Mặt trận đều có văn bản kiến nghị với cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân xem xét để miễn nhiệm và đều được cấp ủy Đảng, chính quyền xem xét, xử lý. Đây chính là thể hiện trách nhiệm, sự chính xác, trung thực, khách quan, dân chủ của Mặt trận. Bên cạnh đó là hình thức thực hiện giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở cơ sở hiện đang được thực hiện thí điểm ở một số địa phương như thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Ninh Bình, Tiền Giang và Quảng Bình. Các nơi được chọn làm điểm đã bố trí hộp thư giám sát đặt trước Văn phòng Ủy ban Mặt trận hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã, tại nhà văn hóa của thôn hoặc nơi công cộng. Thành phố Hà Nội có 175 hòm thư, thành phố Hồ Chí Minh có 634 hòm thư, tỉnh Ninh Bình có 256 hòm thư, tỉnh Quảng Bình có 199 hòm thư. Sau 05 năm, thành phố Hà Nội nhận được 1.120 đơn thư và ý kiến, kiến nghị (208 đơn, 690 ý kiến phản ánh), thành phố Hồ Chí Minh nhận được 208 đơn và ý kiến kiến nghị (phản ánh miệng 154 ý kiến, 20 đơn gửi trực tiếp và 43 đơn bỏ vào hòm thư); Quảng Bình nhận được 391 đơn5. Các địa phương đều thực hiện nghiêm túc quy trình mở hòm thư giám sát, lập biên bản, ghi chép sổ sách, phân loại và bàn giao đơn thư, kết quả xử lý, giải quyết đơn thư rất cụ thể và chi tiết. Các cơ quan chức năng đã kiểm tra và tiến hành xử lý trách nhiệm đối với sai phạm của cá nhân có liên quan, được nhân dân đồng tình và tin tưởng.
2. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.1. Một số tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động giám sát của Mặt trận còn có một số tồn tại, hạn chế:
- Hoạt động giám sát của Mặt trận trong thực tế vẫn mang nặng tính hình thức, hiệu quả pháp lý chưa cao; giám sát phần nhiều mới được thể hiện qua các phát hiện, nêu ý kiến tại các kỳ họp, phiên họp của các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng giám sát, chưa có những phương thức giám sát đúng nghĩa và giám sát hầu như mới chủ yếu ở cấp cơ sở. Nhiều đề xuất, kiến nghị của Mặt trận chưa được cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp xem xét, giải quyết và trả lời, mặc dù một số lĩnh vực đã có quy định của pháp luật.
- Chưa tiến hành thường xuyên các hoạt động giám sát theo chuyên đề; việc tổ chức giám sát còn dựa nhiều vào báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát; chưa đầu tư thời gian nghiên cứu thực tế, tài liệu, thông tin nên báo cáo kết luận giám sát còn chung chung, hiệu lực, hiệu quả không cao. Việc theo dõi sau giám sát còn buông lỏng, thiếu sự kiểm tra, đôn đốc việc giải quyết kiến nghị. Công tác giám sát việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh ít được quan tâm; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa có nề nếp, hiệu quả chưa cao.
- Phạm vi đối tượng bị giám sát trong thực tế của Mặt trận còn chưa đầy đủ, chưa toàn diện, thậm chí là bỏ trống. Mặt trận mới chủ yếu tham gia giám sát được một số hoạt động của cơ quan chính quyền, còn đối với hoạt động của cơ quan dân cử và cơ quan tư pháp thì phạm vi còn hẹp.
- Hoạt động giám sát chưa được thực hiện thường xuyên. Thực tế cho thấy, giám sát là một nhiệm vụ cơ bản của Mặt trận nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tham gia xây dựng chính quyền nhưng đây lại là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp.
- Thực hiện quyền giám sát của Mặt trận chưa mạnh mẽ và chưa thể hiện đúng, đầy đủ quyền lực của nhân dân; chưa lôi kéo, phát huy tổng hợp sức mạnh các tổ chức thành viên tham gia hoạt động giám sát, còn né tránh, ngại va chạm với các cơ quan nhà nuớc.
2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, việc thể chế hoá các chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác Mặt trận và chức năng giám sát của Mặt trận còn chậm, do vậy, còn thiếu các văn bản pháp luật quy định đầy đủ và rõ ràng về nội dung, hình thức, cơ chế pháp lý giám sát của Mặt trận.
Thứ hai, những quy định về giám sát của Mặt trận trong Hiến pháp, pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác chưa quy định cụ thể và đầy đủ về trách nhiệm, cơ chế, hậu quả pháp lý, cũng như những điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát của Mặt trận. Trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 cũng chỉ quy định có tính chất nguyên tắc về mục đích giám sát, đối tượng, hình thức giám sát. Nhiều nội dung quan trọng trong nhiệm vụ giám sát của Mặt trận chưa được quy định cụ thể như việc phối hợp tham gia các đoàn giám sát của Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân các cấp. Nhiều vấn đề nhân dân bức xúc nhưng chưa có cơ chế cụ thể để giám sát, như giám sát các chương trình, dự án do Nhà nước đầu tư trực tiếp tới xã, giám sát thu, chi ngân sách xã, thu chi các loại quỹ, các khoản đóng góp của dân... Trong các văn bản pháp luật vẫn còn thiếu những quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết, trả lời những phát hiện, kiến nghị của Mặt trận. Do đó, chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát của Mặt trận còn thấp, chưa đáp ứng mong đợi và những đòi hỏi của nhân dân.
Thứ ba, nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức Đảng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận còn chưa đầy đủ, chưa sâu sắc và toàn diện, đôi khi coi nhẹ công tác giám sát của Mặt trận. Có nơi Đảng lãnh đạo công tác Mặt trận không chặt chẽ, bố trí cán bộ không thích hợp, do đó hạn chế tác dụng và hiệu quả hoạt động của Mặt trận các cấp.
Thứ tư, trong thực tế, điều kiện và kinh phí hoạt động của Mặt trận các cấp nhất là cấp cơ sở còn gặp rất nhiều khó khăn. Hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng của nhiều địa phương gặp khó khăn do ngân sách xã không cân đối được nên hoạt động của các ban này ở một số địa phương hiệu quả thấp.
3. Một số kiến nghị
Qua thực tiễn giám sát của Mặt trận những năm qua, để triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 về giám sát, tác giả xin nêu một số kiến nghị:
- Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 đã quy định một chương riêng về hoạt động giám sát của Mặt trận (từ Điều 26 đến Điều 31). Để các quy định này đi vào cuộc sống, trước hết cần ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm cụ thể hóa từng điều luật trong chương này theo đúng tinh thần Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020: “Mở rộng dân chủ trực tiếp, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào công việc của Nhà nước; tăng cường sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận và các tổ chức thành viên; bảo đảm quyền giám sát của nhân dân”.
- Cần huy động đội ngũ các chuyên gia đầu ngành trong tổ chức của Mặt trận trên nhiều lĩnh vực tham gia vào quá trình giám sát bằng các hình thức như tư vấn, phản biện về quy trình và kết quả giám sát, hậu kiểm kết quả xử lý các kiến nghị giám sát… nhằm tạo được bước đột phá trong hoạt động giám sát của Mặt trận.
- Để đạt đến một địa vị pháp lý độc lập tương đối trong hoạt động giám sát, cần xem xét lại cách phân bổ ngân sách cho hoạt động của Mặt trận. Việc phân bổ ngân sách như hiện nay đã làm cho Mặt trận các cấp gần như phụ thuộc vào quyết định của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, do đó, ngân sách nhà nước dành cho Mặt trận nên để Quốc hội phân bổ và giao các cơ quan Mặt trận quản lý và sử dụng, có sự giám sát, kiểm tra của các cơ quan tài chính các cấp.
Học viện Chính trị khu vực II
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tr. 246.
[2]. Báo cáo số 421 ngày 15/5/2013 của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về tổng kết thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên (tr. 5).
[3]. Theo số liệu trong Báo cáo số 35-BC/CCTP ngày 12/3/2014 của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương.
[5]. Tổng hợp số liệu từ Báo cáo số 542 ngày 02/01/2014 của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về công tác Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tham gia xây dựng chính quyền năm 2013 (tr. 5); Báo cáo số 82 ngày 11/11/2014 (tr. 4) và Báo cáo số 69 ngày 27/10/2015 (tr. 5) về công tác tham gia xây dựng chính quyền của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh; Thông báo số 31 ngày 24/11/2014 (tr. 4) và Báo cáo số 54 ngày 25/11/2015 về công tác tham gia xây dựng chính quyền của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hà Nội (tr. 4); Thông báo số 45 ngày 02/11/2015 (tr. 6) về công tác tham gia xây dựng chính quyền năm 2015 của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Bình.