Trợ giúp pháp lý luôn được xác định là một trong các chính sách giảm nghèo chung tại các nghị quyết của Chính phủ hoặc kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ triển khai nghị quyết của Quốc hội. Thông qua bài viết, tác giả đã khái quát những kết quả mà Bộ Tư pháp đã đạt được trong xây dựng, rà soát tích hợp chính sách, văn bản về trợ giúp pháp lý các giai đoạn từ năm 2010 - 2015 và giai đoạn từ năm 2015 đến nay; kết quả hoạt động trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý và các quyết định của Thủ tướng Chính phủ giai đoạn 2011 - 2020, qua đó, có những đánh giá công tác tợ giúp pháp lý trong cương trình giảm nghèo và đề xuất những phương hướng trong thời gian tới.
Trợ giúp pháp lý luôn được xác định là một trong các chính sách giảm nghèo chung tại các nghị quyết của Chính phủ hoặc kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ triển khai Nghị quyết của Quốc hội, cụ thể: Khoản 15 Mục B Phần III Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo (Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP) quy định: Bộ Tư pháp chủ trì, hỗ trợ với các bộ liên quan trình, ban hành chính sách hỗ trợ pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật; Khoản 13 Phần IV Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020 (Nghị quyết số 80/NQ-CP) quy định: Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, hoàn thiện, trình ban hành chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo.
Trước yêu cầu tập trung chính sách, nguồn lực thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, tránh việc một lĩnh vực có nhiều văn bản cùng triển khai chính sách giảm nghèo, ngày 24/6/2014, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, trong đó yêu cầu các bộ, ngành rà soát các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chính sách giảm nghèo và sắp xếp, điều chỉnh theo hướng tập trung chính sách, nguồn lực, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp. Thực hiện Nghị quyết trên của Quốc hội, ngày 19/12/2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2324/QĐ-TTg ban hành kế hoạch hành động, triển khai Nghị quyết số 76/2014/QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, trong đó giao Bộ Tư pháp: (i) Tích hợp Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 về chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo giai đoạn 2011 - 2020 (Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg) và Quyết định số 59/2012/QĐ-TTg ngày 24/12/2012 về chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã nghèo giai đoạn 2013 - 2020 (Quyết định số 59/2012/QĐ-TTg); (ii) Xây dựng chính sách trợ giúp pháp lý chung đối với hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có chính sách ưu tiên đối với hộ nghèo trên địa bàn các huyện, xã nghèo; mở rộng đối tượng thụ hưởng là người nghèo thuộc hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo.
Với những nhiệm vụ được giao ở trên, Bộ Tư pháp đã khẩn trương triển khai nghiên cứu, xây dựng chính sách trợ giúp pháp lý, kết quả cụ thể như sau:
1. Về kết quả xây dựng, rà soát tích hợp chính sách, văn bản về trợ giúp pháp lý
1.1. Giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015
Thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP và Nghị quyết số 80/NQ-CP, Bộ Tư pháp đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg và Quyết định số 59/2012/QĐ-TTg, trong đó có các hoạt động hỗ trợ các địa phương có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn để bảo đảm triển khai chính sách trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý ngay tại nơi người dân sinh sống. Đồng thời, Bộ Tư pháp đã ban hành nhiều kế hoạch triển khai các quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc phối hợp với các bộ, ngành có liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn để có cơ sở cho các địa phương triển khai thực hiện Quyết định số 2497/QĐ-BTP ngày 01/10/2010 ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 52/2010/QĐ TTg, Quyết định số 650/QĐ-BTP ngày 27/3/2013 ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 59/2012/Đ-TTg, Thông tư liên tịch số 24/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 17/2/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện Quyết định số 59/2012/QĐ-TTg).
1.2. Giai đoạn từ năm 2015 đến nay
Việc triển khai các hoạt động theo Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg và Quyết định số 59/2012/QĐ-TTg trên thực tế gặp những khó khăn, vướng mắc như: Một số hoạt động hỗ trợ vượt ra ngoài công tác trợ giúp pháp lý mang tính phổ biến, giáo dục pháp luật (in ấn các tài liệu mang tính phổ biến về các lĩnh vực pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp; sinh hoạt tổ hòa giải, mà thời điểm ban hành các chính sách này chưa có Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và Luật Hòa giải ở cơ sở…) nên phần nào đã ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chính sách; việc đánh giá hiệu quả thực hiện các hoạt động và tình hình sử dụng kinh phí chưa được gắn kết với nhau, việc cấp kinh phí và đánh giá hiệu quả thực hiện các hoạt động do nhiều cơ quan thực hiện nên dẫn đến hiệu quả của chính sách trợ giúp pháp lý chưa cao… Hơn nữa, trong bối cảnh cần đổi mới công tác trợ giúp pháp lý theo Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015 - 2025 được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 01/6/2015 và yêu cầu rà soát các chính sách trong chương trình giảm nghèo theo hướng tập trung chính sách, nguồn lực, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp, Bộ Tư pháp đã nghiên cứu, xây dựng các hoạt động với mục tiêu tiếp tục thực hiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả chính sách trợ giúp pháp lý cho các đối tượng thuộc diện được trợ giúp pháp lý nói chung, trong đó ưu tiên các địa bàn huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Ngày 08/8/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg về chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016 - 2020 và hỗ trợ vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình (Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg) với các hoạt động hỗ trợ như: Hỗ trợ vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình, truyền thông về trợ giúp pháp lý ở cơ sở, đường dây nóng về trợ giúp pháp lý... Đây là những hoạt động có tác động trực tiếp tới người được trợ giúp pháp lý nhằm kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi có tranh chấp, vướng mắc pháp luật.
Trong giai đoạn này, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, trong đó, mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý là người thuộc hộ cận nghèo bị buộc tội, nhằm góp phần bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của những người yếu thế trong xã hội khi họ không có khả năng thuê luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Kết quả hoạt động trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý và các quyết định của Thủ tướng Chính phủ giai đoạn 2011 - 2020
2.1. Thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành
Giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2017, triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã thực hiện 675.027 vụ việc tư vấn pháp luật, 55.374 vụ việc tham gia tố tụng, 1.367 vụ việc đại diện ngoài tố tụng và 16.170 vụ việc khác cho 763.814 người được trợ giúp pháp lý với 180.081 người nghèo, 171.802 người dân tộc thiểu số…
Sau gần 03 năm triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã thực hiện được 93.772 vụ việc trợ giúp pháp lý, trong đó có 63.812 vụ việc tư vấn pháp luật, 29.317 vụ việc tham gia tố tụng, 643 vụ việc đại diện ngoài tố tụng cho 93.772 người được trợ giúp pháp lý với 20.184 người nghèo, 25.106 người dân tộc thiểu số… Các vụ việc trợ giúp pháp lý đều đạt chất lượng tốt, đáp ứng được yêu cầu theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn. Nhiều vụ việc tham gia tố tụng do người thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện đạt hiệu quả nhất định, có nhiều vụ án được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân, thậm chí có những vụ việc được tuyên trắng án, qua đó, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý.
2.2. Kết quả thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ
2.2.1. Giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015
Các hoạt động theo Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg và Quyết định số 59/2012/QĐ-TTg không tập trung riêng cho hoạt động trợ giúp pháp lý, mà chủ yếu thực hiện các hoạt động giúp người dân nâng cao ý thức và hiểu biết pháp luật. Trên cơ sở các hoạt động quy định, các địa phương đã triển khai thực hiện và đạt được kết quả cụ thể như sau:
- Tổ chức trợ giúp pháp lý lưu động[1] cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số đối với các xã thuộc các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn: Trong giai đoạn này, gần 9.000 đợt trợ giúp pháp lý lưu động được tổ chức, qua đó thực hiện tư vấn pháp luật tại chỗ được khoảng 135.000 vụ việc cho người nghèo, người dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng và đối tượng khác. Các đợt trợ giúp pháp lý lưu động được thực hiện linh hoạt như: Tổ chức các bàn để tiếp dân theo lĩnh vực pháp luật, tổ chức các lớp học, buổi nói chuyện chuyên đề pháp luật hoặc giới thiệu các quy định của pháp luật, hướng dẫn địa phương về các nội dung pháp luật cần phát trên loa phát thanh...
- Tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý[2] cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã thuộc các huyện nghèo: Trong giai đoạn này, hơn 21.000 buổi sinh hoạt đã được tổ chức với nội dung phong phú liên quan đến các lĩnh vực pháp luật như: Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và gia đình..., qua đó, tư vấn, giải quyết ngay vướng mắc của người dân tại cộng đồng dân cư với hơn 150.000 vụ việc tư vấn pháp luật.
- Truyền thông pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số: Cung cấp 10 loại tờ gấp pháp luật về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền và nghĩa vụ đặc thù của đồng bào dân tộc thiểu số với nội dung đơn giản, dễ hiểu cùng hình thức trình bày phong phú, sinh động để phát miễn phí cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo; cung cấp Báo Pháp luật Việt Nam hàng ngày cho Ủy ban nhân dân cấp xã và Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý ở các xã thuộc huyện nghèo; lắp đặt khoảng 4.200 bảng thông tin và 2.000 hộp tin về trợ giúp pháp lý đã được lắp đặt tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã nghèo, trung tâm bưu điện, nhà sinh hoạt cộng đồng, nhà văn hóa, đồn biên phòng đóng trên địa bàn các xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn…
- Tập huấn, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng, nghiệp vụ trợ giúp pháp lý: Trong khoảng 05 năm, hơn 200 lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý đã được tổ chức với gần 13.000 học viên tham dự. Nội dung chủ yếu là kỹ năng trợ giúp pháp lý trong các lĩnh vực pháp luật và kỹ năng trợ giúp pháp lý cho một số đối tượng đặc thù; giới thiệu một số văn bản pháp luật mới có liên quan đến công tác trợ giúp pháp lý; giải đáp vướng mắc và trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong việc thực hiện trợ giúp pháp lý.
- Hỗ trợ cán bộ làm việc tại chi nhánh của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tại các huyện nghèo tham gia các lớp học văn hoá, chuyên môn pháp lý, tham gia khóa đào tạo nghề luật sư tạo nguồn quy hoạch bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý: Có 20 người làm việc tại các chi nhánh của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước ở các huyện nghèo nhận sự hỗ trợ này để tham gia học tập khóa đào tạo nghề luật sư nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng, nghiệp vụ, tạo nguồn bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý.
2.2.2. Giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020
Ở giai đoạn này, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật Hòa giải ở cơ sở đã có hiệu lực, hoạt động trợ giúp pháp lý đã tách biệt với các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Công tác trợ giúp pháp lý đã hướng vào trọng tâm nâng cao chất lượng, hoạt động trợ giúp pháp lý thông qua việc thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, trong đó chú trọng vụ việc tham gia tố tụng và truyền thông về trợ giúp pháp lý. Các địa phương thực hiện hoạt động hỗ trợ theo Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg đạt được kết quả cụ thể như sau:
- Hỗ trợ thực hiện các vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình: Từ năm 2016 đến hết tháng 04/2020, các địa phương được ngân sách trung ương hỗ trợ đã thực hiện 13.071 vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình cho 12.965 người được trợ giúp pháp lý, trong đó: 1.727 người nghèo, 6.890 người dân tộc thiểu số, 1.822 trẻ em, 640 người có công với cách mạng và 1.886 đối tượng khác. Nếu chia theo lĩnh vực pháp luật thì: Pháp luật hình sự có 10.923 vụ, dân sự có 1.719 vụ, hành chính có 143 vụ và lĩnh vực khác có 101 vụ.
Việc thực hiện các vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình đã trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý, góp phần cùng với các cơ quan tiến hành tố tụng bảo đảm việc điều tra, truy tố và xét xử các đối tượng được trợ giúp pháp lý một cách khách quan, công khai, đúng người và đúng tội. Trong nhiều vụ án, quan điểm bào chữa hoặc bảo vệ của người thực hiện trợ giúp pháp lý có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại… là người được trợ giúp pháp lý. Người thực hiện trợ giúp pháp lý khi bào chữa hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, thực hiện đúng các quy định về tố tụng và các quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Sự tham gia của đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý tại các cơ quan tiến hành tố tụng góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng điều tra, truy tố, xét xử khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đối với người được trợ giúp pháp lý là bị can, bị cáo thì vụ việc có người thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia giúp họ giữ được tâm lý an tâm, tự tin hơn vì có chỗ dựa về mặt tinh thần và sự giúp đỡ về pháp luật.
- Các hoạt động tạo nguồn bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý và tăng cường năng lực cho người thực hiện trợ giúp pháp lý: Khoảng 170 viên chức của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước được hỗ trợ tham gia khóa đào tạo nghề luật sư với cam kết làm việc trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý tại Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước ít nhất 02 năm kể từ khi đi đào tạo, góp phần tạo nguồn phát triển đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý để cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý kịp thời cho người được trợ giúp pháp lý trên địa bàn.
Trong giai đoạn này, gần 200 lớp tập huấn được tổ chức tại các địa phương có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn với khoảng 16.000 người tham dự nhằm trang bị cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý các kiến thức chuyên sâu về pháp luật trợ giúp pháp lý cũng như kỹ năng trợ giúp pháp lý trong các lĩnh vực pháp luật và kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý cho một số đối tượng đặc thù như người khuyết tật, người nghèo, trẻ em...
- Truyền thông về trợ giúp pháp lý ở cơ sở: Các địa phương có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn đã thiết lập đường dây nóng về trợ giúp pháp lý để giúp người dân phản ánh kịp thời những khó khăn, vướng mắc về pháp luật phát sinh trong cuộc sống, tạo sự công bằng trong tiếp cận pháp luật của người dân. Hơn 20.000 chuyên trang, chuyên mục về trợ giúp pháp lý bằng tiếng Việt và tiếng dân tộc đã được xây dựng và phát trên đài truyền thanh xã nhằm truyền thông giúp người dân biết về quyền được trợ giúp pháp lý, thủ tục yêu cầu trợ giúp pháp lý nhanh nhất. Ngoài ra, để trực tiếp hướng dẫn, giải đáp cho người dân về các quy định của pháp luật trợ giúp pháp lý, hơn 6.000 đợt truyền thông về trợ giúp pháp lý ở cơ sở được tổ chức với khoảng 400.000 người tham dự.
3. Đánh giá công tác trợ giúp pháp lý trong chương trình giảm nghèo
Việc xây dựng, ban hành chính sách trợ giúp pháp lý luôn có sự đánh giá, tổng kết giai đoạn trước để có những hoạt động phù hợp trong giai đoạn hiện tại. Các kết quả của công tác trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo góp phần tích cực trong việc xóa đói, giảm nghèo và nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân, qua đó đã chứng minh chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về giảm nghèo là đúng đắn, kịp thời, phù hợp. Việc có các hoạt động hỗ trợ từ trung ương đã bảo đảm tính chủ động và kịp thời cho các địa phương trong việc triển khai các hoạt động cho người dân có trọng tâm, trọng điểm ngay tại cơ sở giúp người dân biết và sử dụng quyền trợ giúp pháp lý mà Nhà nước dành cho họ. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo vẫn nảy sinh một số khó khăn, vướng mắc như:
- Nhận thức về trợ giúp pháp lý của một số người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng sâu, vùng xa vẫn còn hạn chế; một số cơ quan, ban, ngành và chính quyền cơ sở vẫn còn chưa tích cực phối hợp thực hiện các hoạt động trợ giúp pháp lý;
- Nguồn nhân lực thực hiện trợ giúp pháp lý (đội ngũ luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý, trợ giúp viên pháp lý) ở một số địa phương còn ít; sự phối hợp giữa Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và các cơ quan, tổ chức chưa thực sự hiệu quả nên việc giới thiệu và chuyển gửi vụ việc tham gia tố tụng chưa được thực hiện đầy đủ; số lượng vụ việc tham gia tố tụng ở một số địa phương vẫn còn hạn chế so với số lượng vụ việc được cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý và giải quyết trên địa bàn;
- Một số hoạt động chưa phù hợp với thực tiễn của địa phương nên một số địa phương khó triển khai: Hỗ trợ truyền thông về trợ giúp pháp lý ở cơ sở 2.000.000 đồng/xã chưa phù hợp cho các địa bàn xa trung tâm; chưa có quy định về duy trì, bảo trì đường dây nóng…;
- Ngân sách địa phương còn khó khăn nên chưa hỗ trợ đủ kinh phí để thực hiện hoạt động truyền thông về trợ giúp pháp lý ở cơ sở, xây dựng, phát hành chuyên trang, chuyên mục về trợ giúp pháp lý bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc trên đài truyền thanh xã tại tất cả các xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg, do đó, hoạt động này chưa được thực hiện đồng bộ tại một số địa phương;
- Một số địa phương tự cân đối ngân sách có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn chưa bố trí kinh phí riêng hoặc bố trí kinh phí chưa đầy đủ để triển khai toàn bộ các hoạt động trợ giúp pháp lý trên địa bàn các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn theo quy định.
4. Phương hướng trong thời gian tới
Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước[3]. Để bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý trên thực tế cho người được trợ giúp pháp lý, cần triển khai đồng bộ, thống nhất các giải pháp từ hoàn thiện thể chế, bảo đảm nguồn nhân lực và kinh phí cho hoạt động trợ giúp pháp lý, tổ chức thực hiện…, tránh trường hợp người được trợ giúp pháp lý không được trợ giúp pháp lý kịp thời. Đặc biệt, việc bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và người được trợ giúp pháp lý sinh sống tại địa bàn các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn cần được quan tâm, chú trọng do phần lớn người dân sinh sống tại địa bàn này là người nghèo, người dân tộc thiểu số với trình độ nhận thức, hiểu biết pháp luật còn hạn chế và chưa có điều kiện để tiếp cận và sử dụng quyền trợ giúp pháp lý mà Nhà nước dành cho họ.
Do đó, để bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho những đối tượng là người nghèo, người dân tộc thiểu số tại địa bàn các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số công việc cụ thể như sau:
- Rà soát, đánh giá hiệu quả từng hoạt động hỗ trợ đã thực hiện thời gian qua để nghiên cứu, xây dựng các hoạt động hỗ trợ giai đoạn mới trên cơ sở kế thừa những hoạt động còn phù hợp, sửa đổi những hoạt động không còn phù hợp theo hướng đa dạng hóa các hoạt động truyền thông về trợ giúp pháp lý để nhiều người được trợ giúp pháp lý biết về trợ giúp pháp lý và sử dụng khi có tranh chấp, vướng mắc pháp luật; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong hoạt động trợ giúp pháp lý để tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận hoạt động này (xây dựng các file truyền thông về trợ giúp pháp lý, các chuyên mục, phóng sự…); hỗ trợ vụ việc tham gia tố tụng phức tạp, điển hình; nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý... nhằm bảo đảm chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý do Nhà nước cung cấp đáp ứng được yêu cầu của người dân ngay cả trong các vụ việc phức tạp, liên quan tới nhiều cơ quan tổ chức cá nhân, vụ việc được dư luận quan tâm có ảnh hưởng đến an toàn, trật tự xã hội.
- Tăng cường tập huấn về kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý cho người dân tộc thiểu số, tăng số lượng người biết tiếng dân tộc thiểu số trên địa bàn; tổ chức tập huấn về pháp luật trợ giúp pháp lý và kỹ năng truyền thông về trợ giúp pháp lý cho đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở (Tư pháp - Hộ tịch, Công an xã, hội viên Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh…) và đội ngũ người có uy tín trong cộng đồng (già làng, trưởng thôn, bản...) để nắm bắt nhu cầu trợ giúp pháp lý cho người dân ngay từ cơ sở.
- Để kịp thời bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người dân ngay khi họ có tranh chấp, vướng mắc pháp luật, cần nghiên cứu cơ chế có người trực tại các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ sở giam giữ (trực tại trụ sở, trực qua điện thoại) trên địa bàn để khi phát hiện đối tượng là người được trợ giúp pháp lý thì kịp thời thực hiện trợ giúp pháp lý cho họ. Để làm được điều này, cần sự phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, cần phải có sự chung tay của cả hệ thống chính trị để chính sách trợ giúp pháp lý thực sự đi vào cuộc sống.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý nói chung và trong các chương trình giảm nghèo nói riêng để bảo đảm người được trợ giúp pháp lý thực sự được hưởng và sử dụng những ưu đãi mà Nhà nước dành cho họ.
Cục trưởng Cục Trợ giúp pháp lý
[1]. Theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
[2]. Thực hiện Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015 - 2025 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 01/6/2015 và hiện nay Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 không còn quy định phương thức sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, nên các địa phương đã thực hiện giải thể hoặc lồng ghép với các câu lạc bộ pháp luật khác ở địa phương.
[3]. Khoản 1 Điều 4 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.