Thông qua bài viết này, tác giả đã nêu bật những kết quả bước đầu Bộ Tư pháp đã đạt được trong quá trình thực hiện Đề án đổi mới đó là: Nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý; tập trung thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý; qua đó có những đánh giá chung về những tác động tích cực, những hạn chế, bất cập và đưa ra phương hướng trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý.
Ngày 01/6/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015 - 2025 (Đề án đổi mới). Xuất phát từ những bất cập của hoạt động trợ giúp pháp lý (TGPL), Đề án đổi mới đặt ra một số mục tiêu lớn là: (i) Tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL; (ii) Tinh gọn tổ chức bộ máy thực hiện TGPL; (iii) Đẩy mạnh truyền thông về TGPL; (iv) Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức và hoạt động TGPL; (v) Huy động mạnh mẽ sự tham gia của xã hội vào hoạt động TGPL.
Sau khi Đề án đổi mới được Thủ tướng Chính phủ ban hành, Bộ Tư pháp đã tích cực, chủ động tổ chức triển khai nhiều hoạt động, từ tham mưu trình cấp có thẩm quyền ban hành; ban hành hoặc phối hợp với các cơ quan có liên quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thực hiện các biện pháp chỉ đạo điều hành cách thức tổ chức việc cung cấp dịch vụ TGPL tại địa phương… nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
1. Kết quả đạt được
1.1. Nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý
Nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của Đề án đổi mới. Đề ra mục tiêu này, Đề án mong muốn thay đổi hình ảnh, ấn tượng về hoạt động TGPL trong nhận thức của các cơ quan cũng như người dân về chất lượng dịch vụ TGPL. Để đạt mục tiêu trên, Bộ Tư pháp đã triển khai đồng bộ nhiều hoạt động. Cụ thể:
- Nâng cao năng lực người thực hiện trợ giúp pháp lý
Từ khi triển khai Đề án đổi mới đến nay, hằng năm, ở trung ương và địa phương đã tổ chức nhiều lớp tập huấn cho đội ngũ người thực hiện TGPL. Để có thể giúp tối đa số người tham dự tập huấn, bên cạnh ngân sách của Nhà nước, Bộ Tư pháp cũng đã chủ động huy động các đối tác nước ngoài hỗ trợ về kỹ thuật và kinh phí cho hoạt động tăng cường năng lực cho người thực hiện TGPL. Về nội dung, các lớp tập huấn tập trung vào kỹ năng TGPL trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự, hành chính; kỹ năng TGPL cho các đối tượng đặc thù như người khuyết tật có khó khăn về tài chính; kỹ năng TGPL cho nạn nhân bị bạo lực như phụ nữ, trẻ em...
Thời gian qua, các địa phương đều thực hiện rà soát đội ngũ trợ giúp viên pháp lý và chuyên viên để đào tạo, bồi dưỡng. Từ năm 2017 đến nay, theo Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg ngày 08/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016 - 2020 và hỗ trợ vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình (Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg), ngân sách trung ương đã hỗ trợ kinh phí để thực hiện tập huấn tăng cường năng lực cho người thực hiện TGPL và hỗ trợ 170 viên chức của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước (Trung tâm) tại các địa phương có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn tham gia khóa đào tạo nghề luật sư tạo nguồn bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý.
Thông qua các hoạt động nêu trên, năng lực thực hiện TGPL của đội ngũ trợ giúp viên pháp lý ngày càng được nâng cao, cơ bản đáp ứng đầy đủ và có chất lượng nhu cầu TGPL của người dân.
- Nâng cao tiêu chuẩn người thực hiện trợ giúp pháp lý
Hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 có nhiều quy định chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện TGPL, quy định tiêu chuẩn đối với tổ chức tham gia TGPL. Cụ thể:
+ Về tiêu chuẩn trợ giúp viên pháp lý: Luật đã chuẩn hóa, nâng cao tiêu chuẩn trợ giúp viên pháp lý tương đương với luật sư, cụ thể là bổ sung tiêu chuẩn phải qua đào tạo nghề luật sư và tập sự nghề TGPL hoặc luật sư để trợ giúp viên pháp lý có thời gian tập sự vận dụng kiến thức, kỹ năng trước khi được cung cấp và chịu trách nhiệm về dịch vụ TGPL. Đối với những trợ giúp viên pháp đã được bổ nhiệm trước khi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 có hiệu lực, Luật yêu cầu trong vòng 05 năm kể từ ngày 01/01/2018 phải có chứng nhận đào tạo nghề luật sư. Hiện nay, trợ giúp viên pháp lý là đội ngũ nòng cốt cung cấp dịch vụ TGPL cho người dân. 05 năm qua, số lượng trợ giúp viên pháp lý đã tăng lên đáng kể, mặc dù tổng số định biên của các Trung tâm giảm so với trước khi triển khai Đề án đổi mới (trước khi triển khai Đề án, toàn quốc có 585 trợ giúp viên pháp lý, đến nay là 642 người).
Luật sư có nguyện vọng tham gia TGPL phải được Trung tâm lựa chọn, ký hợp đồng theo trình tự, thủ tục căn cứ trên những tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể và phù hợp với yêu cầu của công tác TGPL tại địa phương. Yêu cầu này bảo đảm luật sư tham gia thực hiện TGPL phải là người có năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm và phẩm chất đạo đức để thực hiện vụ việc TGPL có hiệu quả, tránh việc ghi danh một cách hình thức.
+ Về tổ chức tham gia TGPL: Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định các điều kiện cụ thể để tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL. Đặc biệt, để ký hợp đồng với các tổ chức có điều kiện tốt nhất cung cấp dịch vụ TGPL, Sở Tư pháp sẽ tổ chức lựa chọn theo một quy trình chặt chẽ phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
Với các quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, chất lượng dịch vụ TGPL đã có nhiều cải thiện. Đến nay, qua đánh giá của cơ quan quản lý nhà nước về TGPL, không có vụ việc nào không đạt chất lượng, chưa phát sinh khiếu nại về kết quả thực hiện TGPL. Kết quả này được ghi nhận thông qua tỷ lệ vụ việc thành công, hiệu quả ngày càng cao, số vụ việc hình sự được Hội đồng xét xử chấp nhận các tình tiết có lợi cho bị cáo theo đề nghị của trợ giúp viên pháp lý, sự đánh giá, ghi nhận của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng[1].
1.2. Tập trung thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý
Trước khi có Đề án đổi mới, vấn đề của công tác TGPL là nguồn lực chưa được sử dụng một cách hợp lý. Do trước đây chưa có Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật Hòa giải ở cơ sở nên Trung tâm chủ yếu thực hiện các hoạt động hỗ trợ như TGPL lưu động ở cơ sở, phổ biến pháp luật... Vụ việc TGPL chủ yếu là giải đáp vướng mắc pháp luật đơn giản thông qua TGPL lưu động, các vụ việc tham gia tố tụng chưa nhiều. Chính vì vậy, một trong những định hướng và mục tiêu rất quan trọng của Đề án đổi mới là tập trung thực hiện vụ việc, đặc biệt là vụ việc tham gia tố tụng, đi vào bản chất của TGPL. Nhằm đạt được mục tiêu này, Bộ Tư pháp đã tích cực triển khai nhiều hoạt động để trực tiếp hoặc gián tiếp, đưa ra các giải pháp mạnh mẽ để các Trung tâm thay đổi cách thức tổ chức công việc, bố trí nguồn lực hợp lý để chủ động tiếp cận nhu cầu TGPL của người dân, thực hiện vụ việc TGPL.
- Về thể chế
+ Tăng cường trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động trợ giúp pháp lý
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã quy định rõ trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng phối hợp tạo điều kiện cho người được TGPL được hưởng quyền TGPL, tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 41). Khoản 3 Điều 31 Luật Trợ giúp pháp lý quy định trong thời hạn 12 giờ kể từ thời điểm nhận được yêu cầu TGPL của người bị bắt, người bị tạm giữ hoặc trong thời hạn 24 giờ kể từ thời điểm nhận được yêu cầu TGPL của bị can, bị cáo, người bị hại là người được TGPL theo quy định của pháp luật về tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm tại địa phương. Quy định này xác định cụ thể hơn về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng đã được ghi nhận tại Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đồng thời bảo đảm để Trung tâm cử người thực hiện TGPL kịp thời trong thời hạn tạm giữ, tạm giam theo quy định.
Trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ sở giam giữ và trại giam trong hoạt động tố tụng đã được cụ thể tại Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng.
Đối với các cơ quan nhà nước có liên quan, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định trong quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, nếu phát hiện công dân thuộc diện được TGPL, cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải thích quyền được TGPL và giới thiệu đến tổ chức thực hiện TGPL.
+ Quy định về các hình thức trợ giúp pháp lý
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định 03 hình thức TGPL là: Tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng mà không quy định “các hình thức TGPL khác” để tránh sự tùy tiện của tổ chức thực hiện TGPL trong việc tổ chức các hoạt động phụ trợ. Với quy định này, việc tổ chức công việc của các Trung tâm đã đi vào nền nếp hơn, thực chất hơn.
+ Chế tài đối với trợ giúp viên pháp lý khi không thực hiện vụ việc tham gia tố tụng
Luật cũng đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nước tập trung thực hiện vụ việc tố tụng thông qua quy định trợ giúp viên pháp lý không thực hiện vụ việc tham gia tố tụng trong thời gian 02 năm liên tục sẽ bị miễn nhiệm, trừ trường hợp do nguyên nhân khách quan. Đến nay, chưa có trợ giúp viên pháp lý nào thuộc trường hợp này.
+ Có cơ chế, chính sách khuyến khích sự tham gia tích cực đối với người thực hiện trợ giúp pháp lý
Một trong những chính sách để khuyến khích sự tham gia tích cực của người thực hiện TGPL là nâng mức thù lao cho luật sư thực hiện vụ việc tham gia tố tụng và mức bồi dưỡng cho đội ngũ trợ giúp viên pháp lý. Cụ thể, ngay sau khi Đề án đổi mới được triển khai, Bộ Tư pháp đã kịp thời trình Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2015/NĐ-CP ngày 17/9/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và nay là Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
- Các biện pháp điều hành cụ thể
Giao chỉ tiêu thực hiện vụ việc tham gia tố tụng. Từ năm 2016, hàng năm, Bộ Tư pháp ban hành chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng cho các trợ giúp viên pháp lý, theo đó, các trợ giúp viên pháp lý có trách nhiệm thực hiện một số lượng vụ việc tham gia tố tụng nhất định căn cứ vào thâm niên giữ chức danh nghề nghiệp này. Hàng năm, chỉ tiêu được điều chỉnh tăng dần. Khi mới triển khai việc giao chỉ tiêu, nhiều trợ giúp viên pháp lý gặp khó khăn vì trong một thời gian dài họ không “buộc phải” thực hiện nhiệm vụ này, không chịu bất kỳ áp lực nào. Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai thực hiện thì nhận thức của đội ngũ này đã có sự thay đổi rõ. Họ nhận thức được rằng, trợ giúp viên pháp lý là một chức danh nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp và thực hiện vụ việc TGPL là nhiệm vụ đương nhiên của chức danh này. Hơn nữa, chỉ thông qua thực hiện vụ việc trợ giúp viên pháp lý mới khẳng định được năng lực của bản thân cũng như góp phần ghi nhận vai trò, vị thế của hoạt động TGPL trong đời sống xã hội. Xuất phát từ nhận thức này, đội ngũ trợ giúp viên pháp lý đã tích cực hơn trong việc trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là kỹ năng tham gia tố tụng.
Có thể khẳng định, sau 04 năm thực hiện chỉ tiêu tham gia tố tụng, nhìn chung, việc tham gia tố tụng của các trợ giúp viên pháp lý đã có chuyển biến tích cực. Việc giao chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng cho trợ giúp viên pháp lý qua các năm đã và đang trở thành công cụ hiệu quả trong việc quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý ở trung ương nói chung và ở địa phương nói riêng. Những kết quả đó đã chứng minh việc giao chỉ tiêu tham gia tố tụng cho các trợ giúp viên pháp lý là đúng đắn, hiệu quả. Đồng thời, việc giao chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng của trợ giúp viên pháp lý góp phần giúp các Sở Tư pháp xác định vị trí, việc làm của các công chức, viên chức trong Trung tâm cho phù hợp tránh lãng phí nguồn lực trong điều kiện thực hiện chủ trương nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay.
- Tinh gọn bộ máy tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã đặt ra yêu cầu là trong một năm kể từ khi Luật có hiệu lực pháp luật Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm rà soát các chi nhánh của Trung tâm đã được thành lập tại địa phương, căn cứ vào nhu cầu TGPL của người dân, nguồn lực và hiệu quả để báo cáo Bộ Tư pháp thống nhất việc duy trì, sáp nhập hoặc giải thể. Đây được coi là một biện pháp cứng rắn hơn để các địa phương tiếp tục kiện toàn, đánh giá quyết định việc hoạt động của các chi nhánh. Các địa phương đã thực hiện nghiêm túc quy định này. Tính đến ngày 30/6/2020, toàn quốc có 123 chi nhánh (giảm 74 chi nhánh).
Về Câu lạc bộ TGPL, trước khi triển khai Đề án đổi mới, toàn quốc có 4.339 câu lạc bộ. Thực hiện Đề án, các địa phương đã giải thể 2.280 câu lạc bộ, không có câu lạc bộ nào được thành lập mới. Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành không còn quy định về câu lạc bộ, do đó, từ khi triển khai Luật các địa phương đã giải thể và sáp nhập 1.477 câu lạc bộ, chuyển đổi mô hình các câu lạc bộ còn lại.
- Truyền thông về trợ giúp pháp lý
Xác định việc hạn chế trong tiếp cận thông tin về TGPL là một nguyên nhân chính dẫn đến việc người dân chưa tìm đến tổ chức thực hiện TGPL, cơ quan quản lý TGPL, các tổ chức thực hiện TGPL đã chú trọng đẩy mạnh công tác truyền thông về hoạt động TGPL theo các phương thức khác nhau: Truyền thông truyền thống (trực tiếp về cơ sở, báo đài, tờ gấp…), truyền thông hiện đại (internet, điện thoại hotline…) và hình thức đặc thù (hộp, bảng tin, tờ tin TGPL tại cơ quan tố tụng, chính quyền cơ sở…).
+ Ở trung ương, Cục Trợ giúp pháp lý đã tích cực phối hợp với các cơ quan truyền thông thực hiện các phóng sự về một số vụ việc thành công, hiệu quả phát sóng trên Đài Truyền hình Việt Nam qua các chương trình có nhiều người theo dõi như Quốc hội với cử tri, truyền hình dân tộc, tọa đàm trực tuyến về chính sách về các kết quả thực hiện TGPL trong chương trình giảm nghèo...; đăng bài viết, bài nghiên cứu trên các kênh báo chí, các phương tiện truyền thông; xây dựng nội dung phóng sự về TGPL cho người dân tộc thiểu số; xây dựng thông điệp về quyền và nghĩa vụ của người thuộc diện TGPL. Trang Thông tin điện tử TGPL đã được nâng cấp, hoàn thiện, kịp thời cung cấp văn bản chỉ đạo, điều hành của trung ương và địa phương, là diễn đàn rộng rãi để trao đổi thông tin, kinh nghiệm, kỹ năng TGPL trên toàn quốc.
+ Ở địa phương, tất cả các Trung tâm trên toàn quốc đã triển khai các hoạt động truyền thông nhằm nâng cao nhận thức cho người được TGPL. Đặc biệt, từ khi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 có hiệu lực Trung tâm đã được bổ sung nhiệm vụ truyền thông về TGPL, thì các Trung tâm đã thực hiện hoạt động này tích cực hơn. Hoạt động truyền thông cũng được đổi mới với nhiều hình thức đa dạng như thông qua việc xây dựng tờ gấp pháp luật, xây dựng phóng sự truyền thông về chính sách TGPL, phóng sự giới thiệu về các vụ việc TGPL đã thực hiện thành công. Từ năm 2016 đến nay, theo Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg, ngân sách trung ương đã bổ sung kinh phí cho 37 địa phương có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn có nhu cầu thiết lập đường dây nóng về TGPL để người dân liên hệ…
- Huy động các tổ chức xã hội, luật sư có chất lượng tham gia trợ giúp pháp lý
Như đã nêu ở trên, theo tinh thần Đề án đổi mới, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ ban hành quy định tăng mức bồi dưỡng thực hiện vụ việc tham gia tố tụng cho luật sư. Đặc biệt, thể chế hóa tinh thần đổi mới về việc huy động luật sư có kinh nghiệm, trình độ, các tổ chức hành nghề luật sư có uy tín tham gia thực hiện TGPL để người dân có quyền tiếp cận dịch vụ TGPL có chất lượng, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết đã quy định việc tham gia TGPL theo hai hình thức là ký hợp đồng và đăng ký tham gia theo các nội dung: Điều kiện, tiêu chuẩn và việc thù lao, chi phí khi thực hiện vụ việc TGPL. Như vậy, bên cạnh việc đăng ký tham gia TGPL, Luật quy định thêm cơ chế ký hợp đồng với tổ chức và được chi trả thù lao khi thực hiện TGPL đã tạo thêm cơ hội, để những tổ chức chất lượng tham gia cung cấp dịch vụ TGPL. Triển khai các quy định về đa dạng hóa chủ thể thực hiện TGPL nêu trên, tính đến hết tháng 6/2019, trên toàn quốc có 33 tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL với các Sở Tư pháp thực hiện TGPL (trong đó có 24 tổ chức hành nghề luật sư, 09 tổ chức tư vấn pháp luật); 161 tổ chức đăng ký tham gia TGPL với các Sở Tư pháp (trong đó có 128 tổ chức hành nghề luật sư, 33 tổ chức tư vấn pháp luật); 511 luật sư ký hợp đồng thực hiện TGPL với các Trung tâm. Bên cạnh đó, theo tinh thần từ Đề án đổi mới và thực hiện quy định từ Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, hiện nay ở các Sở Tư pháp đã công bố danh sách người thực hiện TGPL và tổ chức thực hiện TGPL tại địa phương, đăng tải trên trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp và gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp, đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
Ngoài ra, để đẩy mạnh đa dạng hóa chủ thể tham gia TGPL, tạo điều kiện cho người được TGPL được thụ hưởng dịch vụ TGPL có chất lượng, Bộ Tư pháp và Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã ký Quy chế số 4617/QCPH/BTP-LĐLSVN ngày 28/12/2016 về phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Liên đoàn Luật sư Việt Nam về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư. Đến nay, hầu hết các địa phương đã ký Quy chế phối hợp với Đoàn Luật sư tỉnh/thành phố. Một số địa phương tuy không ban hành Quy chế nhưng có phối hợp khá tốt với Đoàn Luật sư địa phương trong công tác TGPL.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động trợ giúp pháp lý
Hệ thống quản lý TGPL do Cục Trợ giúp pháp lý phối hợp với Cục Công nghệ thông tin xây dựng và đưa vào vận hành chính thức từ tháng 01/2019. Qua thực tiễn sử dụng, Hệ thống quản lý TGPL đã cơ bản đáp ứng nhu cầu quản lý, lưu trữ hồ sơ điện tử, trích xuất các số liệu thống kê báo cáo theo biểu mẫu quy định dễ dàng, nhanh chóng. Hệ thống quản lý TGPL cung cấp nhanh một số thông tin phục vụ cho công tác quản lý như: Số liệu vụ việc thụ lý, số liệu vụ việc hoàn thành, số lượng người thực hiện TGPL... Từ đó, tiết kiệm thời gian trong xử lý công việc, nắm bắt nhanh tình hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý trên toàn quốc nói chung và tại các Trung tâm nói riêng.
Hệ thống quản lý TGPL cập nhật, lưu trữ thông tin tổ chức thực hiện TGPL, danh sách người thực hiện TGPL liên tục, kịp thời. Đặc biệt, Hệ thống quản lý TGPL được xây dựng và chạy trên nền tảng công nghệ hiện đại, có khả năng trích xuất và tích hợp cơ sở dữ liệu của các hệ thống đang vận hành chung trong Bộ. Hệ thống quản lý TGPL vận hành theo cơ chế phân quyền bảo đảm quy trình bảo mật thông tin việc, vụ việc đáp ứng quy định của pháp luật về bảo mật thông tin trong hoạt động TGPL.
Tại địa phương, các đơn vị thường xuyên cập nhật thông tin về tổ chức, người thực hiện TGPL, thông tin việc, vụ việc TGPL và trích xuất các thống kê báo cáo phục vụ cho công tác quản lý, theo dõi và hoạt động TGPL. Nhiều Trung tâm đã ban hành các văn bản đôn đốc, chỉ đạo, hướng dẫn việc cập nhật thông tin lên Hệ thống quản lý TGPL.
2. Đánh giá chung
2.1. Những tác động tích cực
Sau 05 năm thực hiện Đề án đổi mới đã mang đến những kết quả khá toàn diện trên các mặt công tác của hoạt động TGPL như đã phân tích ở trên, đến nay có thể khẳng định, việc đổi mới công tác TGPL trên thực tế trong thời gian qua là cần thiết và đã có những thành công mang tính đột phá. Nhiều định hướng đúng đắn của Đề án đổi mới đã được đánh giá, kiểm chứng và ghi nhận trong Luật, các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành và cần tiếp tục triển khai trên thực tế. Đến nay, cơ sở pháp lý cho sự phát triển bền vững của công tác TGPL đã tương đối đầy đủ. Các địa phương đều đã thể hiện sự nhất trí, đồng tình cao đối với chính sách TGPL hiện hành. Công tác TGPL đã được ổn định, dần đi vào chiều sâu, thực chất, bảo đảm quyền lợi tốt nhất cho các đối tượng yếu thế trong các vụ án hình sự, dân sự... được người dân tin tưởng.
2.2. Những hạn chế, bất cập
- Bất cập về mục tiêu, nhiệm vụ của Đề án đổi mới
Một số mục tiêu, nhiệm vụ của Đề án đổi mới còn chưa hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tiễn trong quá trình triển khai. Cụ thể:
+ Định hướng nhiệm vụ chuyển đổi các Trung tâm trực tiếp cung cấp dịch vụ TGPL thành cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về TGPL chưa phù hợp với bối cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội, định hướng cải cách tổ chức bộ máy, tinh gọn biên chế.
+ Về nhiệm vụ tinh giản biên chế: Đề án yêu cầu giảm mạnh tổng số biên chế sự nghiệp, số giảm này chuyển sang công chức ở trong lĩnh vực công tác tư pháp. Tuy nhiên, theo các văn bản của trung ương thì đội ngũ công chức nói chung cũng cần giảm.
- Bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện
+ Với số liệu thống kê về tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL tại các tỉnh có thể thấy, đội ngũ người thực hiện TGPL còn mỏng, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi có tỷ lệ người nghèo, người dân tộc thiểu số cao, điều kiện đi lại khó khăn. Trong điều kiện tinh giản biên chế hiện nay, thì việc tăng biên chế nhà nước thực hiện TGPL (trợ giúp viên pháp lý) là điều rất khó khăn, trong khi đó luật sư là lực lượng có trình độ nghiệp vụ và kỹ năng hành nghề có tiềm năng tham gia hoạt động TGPL nhưng lại tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn. Đây là một thách thức rất lớn đối với công tác TGPL tại những địa bàn này.
+ Về cơ chế đánh giá chất lượng dịch vụ TGPL: Mặc dù chất lượng dịch vụ TGPL là vấn đề được quan tâm hàng đầu, đã có nhiều biện pháp được thực hiện để hướng tới mục tiêu này, tuy nhiên, cơ chế đánh giá chất lượng vụ việc TGPL hiện nay chưa thật sự phù hợp, chưa xây dựng được đội ngũ chuyên gia độc lập để đánh giá chất lượng vụ việc một cách khách quan, thiếu quy định để đánh giá vụ việc thành công rõ rệt (vì vụ việc được thực hiện bảo đảm chất lượng nhưng chưa chắc đã hiệu quả, thành công vì phụ thuộc vào ý chí của người phán xử...).
+ Công tác truyền thông về TGPL: Tuy các cơ quan quản lý nhà nước tổ chức thực hiện TGPL đã tích cực tăng cường số lượng các đợt truyền thông, đổi mới phương thức truyền thông nhưng hiệu quả nói chung vẫn chưa thật sự như mong đợi. Qua so sánh số liệu về số lượng người thuộc diện TGPL, số vụ việc TGPL do các tổ chức thực hiện TGPL tiếp nhận, thực hiện[2], có thể nhận định, nhận thức của nhiều người dân về TGPL của người dân chưa cao, chưa biết về hoạt động TGPL, quyền được TGPL của mình để được giúp đỡ khi có nhu cầu.
+ Về huy động xã hội tham gia thực hiện TGPL: Mặc dù thể chế hiện nay đã có nhiều cải tiến, có chính sách thu hút sự tham gia của xã hội đối với hoạt động TGPL như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, đến nay số lượng tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động này vẫn khiêm tốn, tham gia hoạt động TGPL một cách thực chất là luật sư ký hợp đồng với Trung tâm TGPL. Tuy vậy, con số này chiếm tỷ lệ khiêm tốn so với luật sư trên toàn quốc.
3. Phương hướng trong thời gian tới
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, duy trì mô hình hệ thống TGPL như hiện nay. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm phù hợp với tính chất của đơn vị sự nghiệp công lập, thực hiện dịch vụ thiết yếu, cơ bản an sinh xã hội không có thu, Nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí.
- Tiếp tục nâng cao số lượng vụ việc và chất lượng dịch vụ TGPL.
- Tăng cường năng lực của Cục Trợ giúp pháp lý đặt trong bối cảnh tinh giản biên chế chung của Ngành Tư pháp, thực hiện nhiệm vụ điều phối, hỗ trợ, hướng dẫn các địa phương thực hiện những hoạt động có trọng tâm, trọng điểm bảo đảm hoạt động TGPL đi đúng hướng, góp phần vào tổng thể chính sách giảm nghèo chung...
- Tăng cường truyền thông về công tác TGPL, ứng dụng công nghệ thông tin và thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vựcTGPL, tối đa hóa khả năng tiếp cận TGPL của người dân, hiện thực hóa quyền được TGPL đã được ghi nhận.
- Thực hiện sơ kết theo chuyên đề về một số nhiệm vụ, giải pháp của Đề án đổi mới TGPL để tiến tới tổng kết Đề án vào năm 2025.
- Nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ định hướng phát triển TGPL giai đoạn 2025 - 2030 trên cơ sở tổng kết Đề án đổi mới TGPL.
[1]. Tại nhiều đợt kiểm tra về công tác phối hợp TGPL trong hoạt động tố tụng tại địa phương, người tiến hành tố tụng phát biểu đánh giá cao vai trò của trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng, cho rằng sự tham gia của trợ giúp viên pháp lý giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết công việc một cách nhanh chóng, chính xác, khách quan, công bằng, đúng pháp luật.
[2]. Theo ước tính có khoảng 45% dân số Việt Nam thuộc diện TGPL theo quy định tại Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, nhưng mỗi năm toàn quốc có từ 35.000 - 40.000 người nhận dịch vụ TGPL.