Chủ nhật 07/12/2025 15:12
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới

Bài viết qua việc tham khảo pháp luật một số nước trên thế giới, đánh giá khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM) theo Luật Cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam còn phù hợp hay cần thiết phải sửa đổi, bổ sung sau hơn 10 năm áp dụng Luật Cạnh tranh.

Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau để tồn tại và phát triển. Bên cạnh những doanh nghiệp sử dụng phương thức cạnh tranh trung thực phải đầu tư vào nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới; sáng tạo những sản phẩm đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng; không thiếu những doanh nghiệp cạnh tranh bằng việc sử dụng những thủ đoạn không minh bạch, lợi dụng thành quả đầu tư của doanh nghiệp khác để mang lại lợi nhuận cho bản thân mình... Hành vi đó xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối thủ cạnh tranh và đến người tiêu dùng, ở mức độ nhất định còn tác động tiêu cực đến cả nền kinh tế.

Bài viết qua việc tham khảo pháp luật một số nước trên thế giới, đánh giá khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM) theo Luật Cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam còn phù hợp hay cần thiết phải sửa đổi, bổ sung sau hơn 10 năm áp dụng Luật Cạnh tranh.

CTKLM xét theo nghĩa rộng, là hành vi trái ngược với cạnh tranh lành mạnh, bao gồm tất cả những hành vi do doanh nghiệp thực hiện, bằng cách sử dụng các thủ đoạn bất chính, gây thiệt hại cho thị trường hoặc cho chủ thể kinh doanh khác trên thị trường.

Hiểu theo nghĩa này nên thời kỳ đầu CTKLM bao gồm cả hành vi hạn chế cạnh tranh. Đây là những hành vi đi ngược lại với trật tự cạnh tranh lành mạnh nói chung. Đặc thù của nhóm hành vi này là luôn hướng tới việc hình thành một sức mạnh thị trường hoặc tận dụng sức mạnh thị trường để làm cho tình trạng cạnh tranh trên thị trường bị biến dạng. Sự biến dạng thị trường ở đây biểu hiện qua việc thay đổi cấu trúc thị trường, thay đổi tương quan cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, loại bỏ đối thủ, ngăn cản đối thủ tiềm năng để làm giảm đi sức ép cạnh tranh...

Đến nay, dù được điều chỉnh bằng những văn bản pháp luật riêng biệt hay được điều chỉnh chung trong cùng một đạo luật thì pháp luật cạnh tranh của các quốc gia đều thừa nhận sự khác biệt giữa hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi CTKLM.

Hành vi CTKLM, theo nghĩa hẹp không bao gồm các hành vi hạn chế cạnh tranh, xuất hiện từ rất lâu trên thế giới nhưng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm nhất quán áp dụng cho tất cả các quốc gia.

Điều 10 bis Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được coi là văn bản pháp lý đầu tiên có tính quốc tế đưa ra khái niệm về hành vi CTKLM: “Bất cứ hành động nào trái với tập quán trung thực, thiện chí trong công nghiệp và thương mại đều bị coi là hành vi CTKLM”. Công ước cũng đưa ra 03 loại hành vi chính của CTKLM.

Khái niệm trên cho thấy tiêu chí đánh giá quan trọng nhất về tính lành mạnh của một hành vi cạnh tranh là tập quán trung thực, thiện chí. Công ước không đưa ra giải thích, hướng dẫn thế nào là tập quán trung thực, thiện chí nhưng theo nhiều học giả, có thể hiểu là những tập quán thương mại (quy tắc xử sự có hệ thống, những thói quen thương mại phổ biến được áp dụng một cách thường xuyên, liên tục trong một thời gian dài, có nội dung rõ ràng) trong đó các bên thực hiện hành vi với ý định tốt một cách ngay thẳng, thiện chí, chính trực.

Tiêu chí này này khi áp dụng vào mỗi quốc gia lại được quy định theo những cách khác nhau bởi mỗi quốc gia có thể có những khác biệt phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và lịch sử của quốc gia đó. Như vậy, với cách xây dựng khái niệm như vậy, Công ước để ngỏ khái niệm để pháp luật các quốc gia thành viên có điều kiện cụ thể hóa thành khái niệm của quốc gia mình.

Pháp là một trong những quốc gia được coi là nơi khởi đầu của pháp luật về hành vi CTKLM. Lý thuyết về CTKLM của Pháp (concurrence déloyale) được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Điều 1382 và 1383 của Bộ luật Dân sự Pháp năm 1904) và cụ thể hóa thông qua các án lệ. Theo các học giả và án lệ có thể hiểu “bị coi là hành vi CTKLM tất cả những hành vi trái với xử sự trung thực trong thương mại”[1]

Từ năm 2005, để triển khai các quy định trong Chỉ thị số 2005/29/EC về các hành vi CTKLM, Pháp đã nội luật hóa khá chi tiết trong Bộ luật tiêu dùng sửa đổi, bổ sung gần nhất ngày 11/3/2017, hành vi CTKLM được quy định tại Điều L. 121-1:

“Những hành vi CTKLM đều bị cấm.

Một hành vi bị coi là CTKLM khi nó đi ngược lại với những yêu cầu về sự cần mẫn nghề nghiệp và làm bóp méo hoặc có khả năng làm bóp méo những xử sự kinh tế của người tiêu dùng trung bình, là người có được thông tin ở mức độ thông thường, tinh ý và thận trọng ở mức độ vừa phải về một hàng hóa hoặc một dịch vụ. Tính không lành mạnh của một hành vi thương mại nhằm đến một loại khách hàng riêng biệt hoặc một nhóm khách hàng dễ bị xâm phạm vì lý do khuyết tật về trí tuệ hoặc thể chất, về lứa tuổi của họ hoặc sự cả tin của họ được đánh giá trên cơ sở khả năng phân biệt ở mức độ trung bình của loại khách hàng hay của nhóm đó.

Coi là hành vi CTKLM, một cách cụ thể những hành vi thương mại gây nhầm lẫn quy định từ Điều L.121-2 đến L. 121-4 và những hành vi thương mại mang tính cưỡng bức quy định tại Điều L. 121- 6 và Điều L.121-7”.

Theo quy định trên, tiêu chí đánh giá tính lành mạnh hay không của hành vi cạnh tranh trong pháp luật của Cộng hòa Pháp căn cứ vào yêu cầu cần mẫn nghề nghiệp và khả năng bóp méo xử sự kinh tế của khách hàng trung bình. Theo đó, cần mẫn nghề nghiệp có thể hiểu “là một dạng quy định cụ thể, được sử dụng bởi các thẩm phán, mà tính pháp quy của nó là đối tượng tranh cãi và nó đưa ra được một số giá trị căn bản mang tính quy luật, đạo đức hay tính hợp lý”[2].

Không nằm trong nhóm những quốc gia đi đầu nhưng Liên bang Nga cũng chú trọng xây dựng pháp luật về cạnh tranh. Theo Điều 4 Luật về bảo vệ cạnh tranh năm 2006 của Liên bang Nga, CTKLM được hiểu là “bất kỳ hành vi nào của chủ thể kinh doanh (nhóm chủ thể) nhằm hướng tới việc có được những ưu thế trong hoạt động thương mại, trái với pháp luật, tập quán thương mại và yêu cầu trật tự, hợp lý và công bằng mà gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho các chủ thể kinh doanh khác, đối thủ cạnh tranh hoặc làm tổn hại hay có thể làm tổn hại tới uy tín thương mại của đối thủ”.

Khái niệm trên cho thấy, hành vi CTKLM của Liên bang Nga được xác định dựa trên các dấu hiệu: Chủ thể kinh doanh; hành vi gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại; và yêu cầu trật tự, hợp lý và công bằng. Tiêu chí “trật tự, hợp lý và công bằng” trong thương mại cũng là tiêu chí kém rõ ràng và có thể biến đổi theo thời gian.

Mặc dù là quốc gia có các quy định về hạn chế cạnh tranh từ rất lâu nhưng các quy định về CTKLM của Hoa Kỳ tương đối phân tán, có sự khác biệt giữa pháp luật liên bang và pháp luật của các tiểu bang, có hành vi CTKLM được giải quyết trong lĩnh vực hoạt động của luật tư và có hành vi CTKLM thuộc sự quản lý của Ủy ban thương mại liên bang (FTC). Năm 1994, Đạo luật của Ủy ban thương mại liên bang FTC sửa đổi, khái niệm hành vi CTKLM được định nghĩa là “hành vi gây ra hoặc có thể gây ra những thiệt hại đáng kể mà người tiêu dùng không thể tránh được một cách hợp lý và thiệt hại gây ra này không bù lại được những lợi ích tương ứng do hành vi đó tạo ra cho người tiêu dùng hoặc đối thủ cạnh tranh”[3].

Ủy ban thương mại liên bang đã hình thành 3 tiêu chí để đánh giá hành vi CTKLM, đó là: Gây thiệt hại cho người tiêu dùng; vi phạm các chính sách xã hội hiện hành; vô đạo đức và không cẩn trọng. Nhưng giải thích cụ thể thế nào là vô đạo đức và không cẩn trọng? thế nào là gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì Nghị viện trao quyền giải thích cho Ủy ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ. Trong bản Tuyên bố chính sách về hành vi không lành mạnh, FTC nêu rõ: “Luật thành văn chỉ định khung cho các điều khoản chung do Nghị viện nhận thấy rằng không thể soạn ra một danh sách các hành vi không lành mạnh mà không bị lạc hậu một cách nhanh chóng hoặc tạo ra những kẽ hở cho việc vi phạm. Nhiệm vụ xác định các hành vi CTKLM thuộc về Ủy ban, với hy vọng các tiêu chí đánh giá sẽ được xem xét và phát triển”.

Như vậy có thể thấy, quy định về hành vi CTKLM trong pháp luật của các quốc gia đều không thể chỉ ra các dấu hiệu để nhận diện được hành vi CTKLM mà đều dẫn chiếu đến những khái niệm thuộc phạm trù đạo đức, văn hóa như tập quán trung thực trong thương mại, xử sự trung thực trong thương mại, cần mẫn nghề nghiệp, yêu cầu trật tự, hợp lý, công bằng... Các tiêu chí này phản ánh các quan niệm đa chiều về kinh tế, xã hội, văn hoá, đạo đức, triết học … tồn tại trong một xã hội, do đó sẽ khác nhau giữa các quốc gia hoặc thậm chí trong cùng một quốc gia. Theo thời gian, các tiêu chí này cũng có thể thay đổi. Mặt khác, trong hoạt động kinh doanh, các chủ thể kinh doanh phải luôn luôn sáng tạo ra những cái mới, độc đáo để thu hút lựa chọn của người tiêu dùng, và chừng nào chưa đạt đến mô hình cạnh tranh hoàn hảo thì chừng đó sẽ luôn song hành là những hành vi CTKLM cũng rất mang tính sáng tạo của đối thủ cạnh tranh. Do đó, việc xây dựng được một khái niệm về hành vi CTKLM vừa bao quát được các hoạt động cạnh tranh hiện tại và tương lai, vừa xác định mọi hành vi bị ngăn cấm vừa đủ linh hoạt để thích nghi với hoạt động biến đổi không ngừng của thị trường là một thách thức khó vượt qua.

Chính vì thế, giải pháp thông dụng được Công ước và pháp luật các quốc gia sử dụng đó là vừa đưa ra khái niệm mở về hành vi CTKLM vừa đưa ra danh sách các hành vi CTKLM.

Luật Cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam cũng sử dụng giải pháp trên, theo đó, hành vi CTKLM được được quy định một cách chung nhất, linh hoạt là « hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh trái với tập quán trung thực, thiện chí, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của chủ thể kinh doanh khác hoặc của người tiêu dùng ».

Quy định này xác định đầy đủ các dấu hiệu của hành vi CTKLM:

- Vì mục đích cạnh tranh;

- Nhằm vào đối thủ cạnh tranh hiện hữu (cụ thể), hay nói khác đi sẽ không thể nói đến CTKLM khi mà các chủ thể không ở trong vị thế cạnh tranh với nhau[4];

- Trái với với tập quán trung thực, thiện chí;

- Đã và sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây tổn hại cho đối thủ cạnh tranh, thông qua đó tìm cách tạo cho mình những mối lợi hoặc thế mạnh bất chính.

- Gây tổn hại đến lợi ích người tiêu dùng, ảnh hưởng xấu đến hoạt động hoạt động thương mại.

Như vậy, so sánh với quy định trong pháp luật của một số quốc gia khác trên thế giới có thể thấy, khái niệm về hành vi CTKLM trong Luật Cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam vẫn tương thích. Do đó, điều cần sửa đổi, bổ sung là danh mục các các loại hành vi CTKLM quy định tại Điều 39 cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại.

ThS. Nguyễn Phương Thảo

Trường Đại học Thành Tây


[1] Jean- Jacques Burst (1993). Concurrence déloyale et parasitisme. Dalloz, Pháp, pp. 9; Yves Chaput (1988). Le droit de la concurrence. PUF, Pháp, pp.71.

[2] Stéphane Rials (1980). Le juge administratif francais et la technique du standard, essai sur le traitement juridictionnel de l’idée de normalité, thèse, LGDJ, Paris, p.3.

[3] Hồ Xuân Thắng (2015), Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam. Đề tài NCKH cấp trường, Đại học Sài Gòn, TP. HCM, tháng 8/2015, tr. 29.

[4] “Phân biệt giữa CTKLM và vi phạm quyền SHTT”, 09/12/2008, http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2008/12/09/2069/.

In bài viết Gửi phản hồi

Các tin khác

Bất cập trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Bộ luật Tố tụng dân sự Vướng mắc cần tháo gỡ để nâng cao hoạt động tranh tụng của luật sư tại phiên toà hình sự Hoàn thiện thẩm quyền của hội đồng giám đốc thẩm theo tinh thần cải cách tư pháp Bàn về thẩm quyền đề nghị miễn thi hành án khoản tiền phạt theo Bộ luật Hình sự Những vướng mắc trong phối hợp thực hiện quy định về “cưỡng chế trả giấy tờ” Sự cần thiết và quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật Báo cáo thống kê thi hành án dân sự - Một số vấn đề từ thực tiễn Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về phiên tòa giám đốc thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết phân tích vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước.
Thay thế hồ sơ giấy bằng dữ liệu điện tử từ ngày 01/01/2026

Thay thế hồ sơ giấy bằng dữ liệu điện tử từ ngày 01/01/2026

Ngày 15/11/2025, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 66.7/2025/NQ-CP quy định cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu (Nghị quyết số 66.7/2025/NQ-CP). Nghị quyết số 66.7/2025/NQ-CP là một trong những văn bản được ban hành theo cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật tại Nghị quyết số 206/2025/QH15 của Quốc hội ngày 24/6/2025.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: “Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu là giải pháp căn cơ, toàn diện”

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: “Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu là giải pháp căn cơ, toàn diện”

Trao đổi với báo chí, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh nhấn mạnh: Việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) dựa trên dữ liệu không chỉ nhằm tinh gọn quy trình, giảm thiểu chi phí xã hội mà còn là giải pháp căn cơ để xây dựng nền hành chính phục vụ, hiện đại, minh bạch. Đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong triển khai chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Bổ trợ tư pháp Việt Nam: Kiến tạo niềm tin và hành trình phát triển

Bổ trợ tư pháp Việt Nam: Kiến tạo niềm tin và hành trình phát triển

Sự phát triển của hoạt động bổ trợ tư pháp là một hành trình có tính lịch sử, gắn liền và phản ánh tầm nhìn, sự chủ động của ngành Tư pháp Việt Nam qua từng giai đoạn, từ bối cảnh đất nước mới giành độc lập đến công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
Kết quả đạt được và những đóng góp của công tác lý lịch tư pháp trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Kết quả đạt được và những đóng góp của công tác lý lịch tư pháp trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Trong quá trình gần 15 năm (2010 - 2025) thực hiện, công tác lý lịch tư pháp đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển nhân lực Bộ, ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển nhân lực Bộ, ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Giai đoạn 2015 - 2025, công tác tổ chức bộ máy, cán bộ của Bộ, ngành Tư pháp có bước phát triển toàn diện cả về số lượng và chất lượng, nhân tố quyết định việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp được Đảng, Nhà nước giao.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng của Bộ, ngành Tư pháp tạo động lực thúc đẩy các tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng của Bộ, ngành Tư pháp tạo động lực thúc đẩy các tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao

Trong suốt 80 năm xây dựng và phát triển, kể từ ngày thành lập cho đến nay, ngành Tư pháp luôn quán triệt, vận dụng sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Thấm nhuần lời dạy của Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ, ngành Tư pháp đã thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức tổ chức và đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực hoạt động, tạo động lực để cá nhân, tập thể trong toàn Ngành vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được Đảng, Nhà nước giao, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực dân sự - kinh tế, quản lý nhà nước trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - thành tựu và yêu cầu đặt ra trong kỷ nguyên mới

Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực dân sự - kinh tế, quản lý nhà nước trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - thành tựu và yêu cầu đặt ra trong kỷ nguyên mới

Trong bối cảnh mới, để thực hiện nhiệm vụ được giao, lĩnh vực pháp luật dân sự - kinh tế cần định hướng cải cách sâu sắc, trong đó, nổi bật là tư duy đổi mới toàn diện về cách xây dựng và thực thi pháp luật. Mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm. Pháp luật phải trở nên dễ hiểu, dễ tiếp cận, dễ tuân thủ; ngôn ngữ luật cần đơn giản hơn, thủ tục pháp lý cần được số hóa mạnh mẽ và các dịch vụ hỗ trợ pháp lý cần phổ cập rộng rãi.
Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1858/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1836/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1859/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1857/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.

Giải trừ trách nhiệm của công chức thuế, tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp

Luật số 56/2024/QH15 bổ sung quy định về trách nhiệm của công chức thuế theo hướng giải trừ trách nhiệm cho công chức thuế khi có gian lận trong kê khai, cung cấp thông tin tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp chân chính.

Cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng

Hải Phòng là địa phương luôn nỗ lực, tích cực thực hiện cải cách thủ tục hành chính, với mục tiêu tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, trong đó phải kể đến lĩnh vực cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Điều này được thể hiện rõ nét qua sự quyết tâm, chủ động, sáng tạo trong triển khai, thực hiện các văn bản, quy định nhằm cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân trong bối cảnh chuyển đổi số và những khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết bàn về những vấn đề cơ bản của quyền riêng tư và sự cần thiết phải bảo vệ quyền riêng tư; phân tích các vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân theo pháp luật quốc tế, từ đó đúc kết và đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số.

Theo dõi chúng tôi trên: