Abstract: This article introduces the concept of real rights and regulations of real rights in the Vietnames Civil Law. So, the author shows some recommendations about real rights for the 2015 Vietnamese Civil Code.
1. Khái niệm về vật quyền
Các quyền đối vật là những quyền được tồn tại một cách khách quan trong đời sống xã hội dân sự. Theo lẽ tự nhiên, con người muốn tồn tại được thì phải tìm mọi cách để đáp ứng các nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của mình. Trước tiên, các nhu cầu vật chất, tinh thần cơ bản của con người phải kể đến như có lương thực để ăn, có nhà để ở, có quần áo để mặc, có xe cộ để đi lại, có ruộng vườn để cày cấy... Con người bằng lao động mà tác động vào thế giới tự nhiên để tạo ra các vật thể nhằm đáp ứng được nhu cầu của mình. Trong thế giới vật chất, các vật chất có thể sẵn có trong tự nhiên (đất đai, nước, kim loại…) hoặc cũng có thể do hoạt động lao động của con người tạo nên (xe cộ, nhà cửa, quần áo…). Các vật chất thời kỳ sơ khởi của loài người chủ yếu tồn tại dưới dạng “vật”, thông thường và chủ yếu là các vật hữu hình như nhà cửa, bàn ghế, thức ăn… Thời kỳ này chưa xuất hiện các loại tài sản mang tính chất vô hình như quyền sở hữu trí tuệ… Để các vật thể này có thể đáp ứng được nhu cầu cho mình thì người có vật phải được quyền làm chủ nó, tức là phải có toàn quyền tác động trực tiếp lên vật theo ý chí và nguyện vọng của mình, đồng thời phải có quyền bảo vệ trước những hành vi xâm phạm từ người khác, phải có quyền không cho phép những người khác tiếp cận cũng như quản lý, khai thác, sử dụng tài sản đó. Nhà nước phải thông qua pháp luật mà quy định cho họ những quyền nhất định trong việc ứng xử đối với tài sản của mình (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt) cũng như cấm, ngăn chặn những người khác thực hiện các hành vi làm ảnh hưởng đến quá trình thực hiện quyền của người có vật. Tóm lại, Nhà nước phải hỗ trợ người có vật bằng cách ban hành chế định quyền sở hữu để tạo cơ sở pháp lý cho người có vật thống trị đối với tài sản của mình và loại trừ khả năng người khác có thể xâm phạm đến quá trình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Đó là lý do phát sinh quyền sở hữu với tư cách là quyền thống trị của một người đối với tài sản của mình và loại trừ tất cả những người khác thoát khỏi quá trình thực hiện quyền thống trị này[1]. Như vậy, pháp luật các nước trên thế giới đều mong muốn đảm bảo cho mọi công dân có được những quyền cơ bản quan trọng nhất của con người, trong đó có quyền đối với tài sản (vật) hợp pháp của mình.
Phải nói rằng, vấn đề sở hữu luôn là vấn đề then chốt trong pháp luật dân sự không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với tất cả nước khác trên thế giới. Các quan hệ tài sản luôn xuất phát từ quan hệ sở hữu và cũng vì quan hệ sở hữu, quan hệ sở hữu là tiền đề, là xuất phát điểm cho tính hợp pháp của các quan hệ khác[2]. Trong sự phát triển chung của xã hội dân sự, nhu cầu của con người ngày càng cao thì cần phải có những cách thức đa dạng, khác nhau để con người có thể đạt được những lợi ích vật chất, tinh thần nhất định cho mình. Một sự thật hiển nhiên trong đời sống xã hội là nhu cầu của con người ngày càng tăng cao, rất đa dạng, phong phú nhưng thực tế trái ngược là không phải bất kỳ người nào cũng có được tài sản của riêng mình để nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất, tinh thần mà mình mong muốn. Vì vậy, họ chỉ có thể thỏa mãn nhu cầu của mình thông qua việc sử dụng tài sản của người khác. Ngược lại, người có tài sản thì không phải bao giờ cũng có nhu cầu trực tiếp sử dụng, khai thác tài sản của mình. Do đó, xuất hiện sự “gặp nhau” về mặt nguyện vọng cũng như lợi ích giữa người có tài sản và người không có tài sản trong việc khai thác công dụng của tài sản. Ví dụ, chủ sở hữu tài sản có thể cho người khác một vài quyền trên tài sản của mình và người này được phép thực hiện các quyền ấy trên tài sản được giao theo quy định của pháp luật và theo ý chí chủ sở hữu. Các quyền này có nội dung khác nhau, có phạm vi áp dụng khác nhau nhưng đều giống nhau ở chỗ chúng đều phái sinh từ quyền sở hữu và có nội dung hẹp hơn quyền sở hữu…[3]. Vậy, có thể khẳng định rằng, ngoài quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu thì vẫn tồn tại những loại quyền khác đối với tài sản. Các loại quyền khác đối với tài sản cho phép các chủ thể khác không phải là chủ sở hữu có quyền khai thác, sử dụng tài sản của chủ sở hữu để đạt được những lợi ích nhất định. Các quyền này đều có mối liên hệ chung với quyền sở hữu và được phái sinh từ quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản. Tóm lại, một xã hội dân sự phát triển đến một trình độ nhất định thì khách quan đưa lại là có sự tồn tại các quyền đối với tài sản, trong đó bao gồm quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản và các quyền tài sản khác đối với tài sản của một chủ sở hữu nhất định.
Các loại vật quyền đã được ghi nhận từ cách đây hằng trăm năm khi mà các quan hệ dân sự được phát triển mạnh mẽ. Pháp luật La Mã đã có những quy định gắn với nhóm hành vi cụ thể tác động lên tài sản. Pháp luật La Mã chia thành hai nhóm: Nhóm các quy phạm thường xuyên hoặc trực tiếp trao cho một số người nhất định quyền sử dụng toàn phần hoặc một phần các đồ vật vì lợi ích của bản thân mình; nhóm các quy phạm tạo quyền cho một số người có quyền yêu cầu các cá nhân khác thực hiện hành vi nào đó để mang lại lợi tức. Trong các nguồn luật La Mã, nhóm thứ nhất của quyền tài sản được gọi là jura in re (vật quyền), nhóm thứ hai - in persona (quyền đối với cá nhân)… Từ thời gian đó, vật quyền hay jura in re được xác định như là một tập hợp các nguyên tắc, xác lập thẩm quyền trực tiếp và thường xuyên của các chủ thể riêng biệt đối với một phần hoặc toàn bộ tài sản[4]. Như vậy, quyền đối với vật (real right) và quyền yêu cầu (right under an obligation - trái quyền) đã được tồn tại từ trong pháp luật La Mã. Trên cơ sở các quy định vật quyền, pháp luật đã xác lập thẩm quyền (quyền năng) trực tiếp và thường xuyên của chủ thể - người có quyền sử dụng toàn bộ hay một phần hoặc toàn bộ đồ vật nằm trong các quan hệ vật quyền vì lợi ích của mình[5]. Các luật gia La Mã không nêu ra định nghĩa về vật quyền nhưng khái niệm vật quyền và trái quyền đã tồn tại từ thời kỳ La Mã (cách đây hơn 2.000 năm). Đến thời kỳ cận đại, Bộ luật Dân sự đầu tiên và nổi tiếng trên thế giới (Bộ luật Napoleon - 1804) cũng đã ghi nhận về các vật quyền ngay trong phần thứ 2 (vật quyền) của Bộ luật này. Do vậy, có thể thấy, khái niệm vật quyền không phải là cái mà người ta “nghĩ ra cho vui” mà nó đòi hỏi từ thực tiễn. Nó là sản phẩm tất yếu của lịch sử chứ không phải tư duy ngẫu hứng của các luật gia[6].
Thông thường, có thể hiểu khái niệm vật quyền thông qua việc nhìn nhận sự đối lập giữa vật quyền và trái quyền. Trong quan niệm la tinh, vật quyền (jus in re) được hiểu là quyền được chủ thể (người có quyền) thực hiện trực tiếp và tức thì trên một vật mà không cần vai trò trung gian của một người khác[7]. Dưới góc độ cụ thể nào đó, vật quyền đối lập với trái quyền. Vật quyền có tính chất tuyệt đối nên mọi người phải tôn trọng quyền của người có vật quyền. Trong khi đó, tính chất tương đối của trái quyền cho phép trái chủ tác động, yêu cầu đối với một chủ thể xác định, tức là trái quyền có hiệu lực đối với một người hoặc một nhóm người nhất định mà không phải là đối với tất cả mọi người. Thông qua việc phân biệt vật quyền và trái quyền, chúng ta có thể nhận thấy những tính chất khác biệt của vật quyền, với nghĩa là quyền tác động trực tiếp, tuyệt đối lên tài sản của một chủ thể nào đó (người là chủ sở hữu hoặc không phải là chủ sở hữu tài sản).
Khái niệm vật quyền cần được nhìn nhận ở hai góc độ chủ quan và khách quan. Theo nghĩa chủ quan thì vật quyền là quyền của một chủ thể nhất định đối với một tài sản nhất định, cho phép chủ thể này trực tiếp thực hiện các quyền năng được pháp luật thừa nhận đối với tài sản đó. Theo nghĩa này, vật quyền là quyền đối vật, khác với trái quyền là quyền của một người yêu cầu một người khác thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định (quyền đối nhân). Theo nghĩa khách quan thì vật quyền là toàn bộ các quy phạm pháp luật quy định về vật với tư cách là đối tượng của quyền, về các loại vật quyền và nội dung của từng loại vật quyền, về căn cứ phát sinh, chấm dứt các loại vật quyền, nguyên tắc thực hiện, bảo vệ vật quyền, về các hạn chế quyền mà người có vật quyền phải tuân thủ khi thực hiện các quyền năng của mình[8].
Để hiểu rõ hơn khái niệm về vật quyền thì cần làm rõ được đối tượng tác động của các vật quyền bao gồm những gì. Nội dung của vật quyền chính là thể hiện cụ thể mối quan hệ giữa chủ thể của quyền (con người) và đối tượng của quyền (vật). Trên thực tế, đối tượng của quyền (vật) đã có những chuyển biến nhất định cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phát triển của xã hội, khi mà của cải trong xã hội được làm ra nhiều hơn, đa dạng hơn, phong phú hơn. Do vậy, đối tượng của quyền là vật không còn phù hợp nữa trong thực tiễn đời sống ngày nay, bởi đối tượng của quyền có thể là những tài sản mang tính chất hữu hình (xe, quần áo, đồ ăn…) và tài sản mang tính chất vô hình (quyền sử dụng đất, quyền sở hữu đối với phát minh, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa…). Như vậy, khái niệm tài sản được hiểu bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản không thể bao trùm hết được các loại tài sản trong giao lưu dân sự.
Tài sản là một phạm trù động mà phạm vi của nó có thể thay đổi theo các giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội nhất định. Do đó người ta không thể định nghĩa tài sản theo cách thức định nghĩa khái niệm của logic hình thức. Tuy nhiên, ngày nay người ta có thể mô tả tài sản theo phân loại. Tài sản hoặc là hữu hình hoặc là vô hình hoặc là bất động sản hoặc là động sản. Như vậy, tài sản bao gồm: Bất động sản hữu hình, bất động sản vô hình và động sản hữu hình, động sản vô hình. Tài sản hữu hình là vật. Còn tài sản vô hình là quyền. Lưu ý rằng, vật ở đây với nghĩa là những bộ phận khác nhau của thế giới vật chất có khả năng đáp ứng nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của con người và đã được quan hệ xã hội hóa. Tài sản vô hình hay còn gọi là quyền tài sản bao gồm: Quyền đối vật (vật quyền), quyền đối nhân (trái quyền) và quyền sở hữu trí tuệ[9]. Với việc nhìn nhận về tài sản như trên có thể thấy, đối tượng của vật quyền không chỉ đơn giản là “vật hữu hình” như quan niệm trong pháp luật thời kỳ trước đây. Một nghiên cứu cho rằng, đối tượng của vật quyền không chỉ được hình dung là một vật cụ thể, mà vật quyền được hiểu là quyền của một chủ thể đối với một tài sản[10], cho phép chủ thể trực tiếp thực hiện các quyền năng được pháp luật thừa nhận đối với một tài sản.
Có thể làm rõ hơn về khái niệm vật quyền thông qua việc nghiên cứu quy định về tài sản trong pháp luật La Mã được ghi nhận trong cuốn “A manual of the priciples of Roman Law relating to persons, property and obligation” xuất bản từ năm 1915 bởi nhà xuất bản W. Green & Son, Edinburgh. Theo đó, một thứ gì đó (thing) được nhìn nhận là vật (res) trong luật La Mã là thứ mà người La Mã dùng để nói đến tài sản thuộc sở hữu của một người nào đó (person’s property). Vật (res) trong luật La Mã không chỉ là vật với nghĩa “vật chất” và “hữu hình” mà còn bao gồm cả những thứ “phi vật chất” và “vô hình” giống như quyền đối với tài sản. Nói cách khác, tài sản (res) trong luật La Mã dùng để chỉ tất cả những thứ mà có thể là đối tượng của một quyền hoặc thông qua nó để các quyền được thực hiện bởi các chủ thể, bao gồm các đối tượng vật chất (vật) và tài sản vô hình (quyền) như quyền thừa kế, dịch quyền…[11].
Từ những lập luận trên, theo quan điểm tác giả, khái niệm “vật quyền” cần được hiểu theo nghĩa rộng, đó là quyền của một chủ thể bằng hành vi của mình tác động trực tiếp lên tài sản theo ý chí của mình mà không bị cản trở bởi bất kỳ người nào khác trong xã hội, nhằm thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích của mình.
2. Quy định về vật quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam
Quyền của một chủ thể nhất định đối với tài sản của mình cần được pháp luật bảo vệ và phải được tôn trọng từ các chủ thể khác trong xã hội là một tất yếu khách quan trong đời sống xã hội dân sự. Những quyền cơ bản của một chủ thể đối với tài sản của mình đã được ghi nhận ở văn bản luật có giá trị cao nhất, cơ bản nhất đó là Hiến pháp. Các bản Hiến pháp của nước ta được ban hành vào các năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 đều có những quy định ghi nhận những quyền cơ bản nhất của công dân, trong đó có quyền sở hữu tài sản. Ngay từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945, bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã ghi nhận rất cụ thể tại Điều thứ 12: “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Đến Hiến pháp năm 2013, các quyền cơ bản này lại được ghi nhận cụ thể hơn, ví dụ, Điều 32 quy định: “1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế; 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”; Điều 34 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Như vậy, pháp luật nước ta đã đảm bảo cho mọi công dân có được những quyền cơ bản quan trọng nhất của con người, trong đó có quyền đối với tài sản hợp pháp của mình.
Tìm hiểu trong lịch sử quá trình phát triển của đất nước, các Bộ luật Dân sự được áp dụng trên lãnh thổ Việt Nam qua nhiều thời kỳ trước đây cũng đều đã có những quy định về vật quyền. Điển hình, Bộ Dân luật Bắc Kì năm 1931 đã có nhưng quy định chung về quyền sở hữu, quyền ứng dụng thu lợi (Điều 556), quyền dùng và quyền ở (Điều 588), quyền địa dịch (Điều 602)… Bộ Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật năm 1936 cũng có quy định khá đầy đủ về các vật quyền như Điều thứ 629 về địa dịch; Điều thứ 1512 về cầm cố; Điều thứ 1527 về thế chấp… Ở một góc độ nào đó, chúng ta có thể nhìn thấy ở thời kỳ Pháp thuộc, các vật quyền đã được ghi nhận trong pháp luật dân sự thông qua các bộ luật nêu trên. Các vật quyền đã được ghi nhận rất cụ thể, rõ ràng trong pháp luật thời Pháp thuộc, tạo thành những quyền tài sản để phục vụ cho một xã hội dân sự phát triển ở thời kỳ này. Để minh chứng cho nhận định này, có thể viện dẫn một số điều luật quy định trong Bộ Hoàng Việt Trung Kì hộ luật năm 1936. Cụ thể, Điều thứ 464 quy định như sau: “Các thứ vì quyền sở - dụng thuộc về bất động sản mà thành ra bất động sản là: A) Những vật quyền thuộc về bất động sản như sau này: 1) quyền sở hữu; 2) quyền hưởng dụng thu lợi; 3) quyền dùng và quyền ở; 4) quyền cho thuê dài hạn; 5) quyền địa dịch; 6) quyền cầm cố bất động sản; 7) quyền để đương…”; Điều thứ 469 quy định: “Các thứ vì pháp luật chỉ định mà là bất động sản là: 1) Những vật quyền thuộc về động sản và quyền đi kiện để đòi hay là truy về một động sản”. Như vậy, có thể thấy rằng, pháp luật dân sự giai đoạn này đã có hầu hết quy định về vật quyền. Các quy định về vật quyền góp phần đảm bảo cho đời sống giao lưu dân sự thời kỳ này sôi động và phong phú hơn giai đoạn xã hội trước đó.
Do điều kiện, hoàn cảnh đất nước xảy ra cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để điều hành Nhà nước và điều chỉnh các giao lưu dân sự trong điều kiện mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nhiều sắc lệnh, trong đó có Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950. Theo đó, những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành sự nó đúng với quyền lợi của nhân dân. Điều 14 Sắc lệnh số 97/SL quy định: Tất cả các điều khoản trong dân pháp điển Bắc Kì, dân pháp điển Trung Kì, Pháp quy giản yếu 1883 (Sắc lệnh ngày 03/10/1883) thi hành ở Nam Kì và những luật lệ theo sau, trái với những điều khoản trên này đều bị bãi bỏ. Như vậy, kể từ sau khi ban hành Sắc lệnh số 97/SL thì vai trò của các Bộ luật Dân sự thời Pháp thuộc trước đây chỉ còn được áp dụng hạn chế ở phạm vi những điều luật phù hợp với quy định tại Sắc lệnh trên. Tuy nhiên, do điều kiện đất nước tiến hành chiến tranh kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945 – 1954, cùng với điều kiện về kinh tế - xã hội nghèo nàn ở giai đoạn này, giao lưu dân sự trong xã hội chưa được đẩy mạnh nên việc xây dựng và ban hành các quy định về pháp luật dân sự là không nhiều.
Hiến pháp năm 1959 ra đời, quyền sở hữu của công dân được ghi nhận nhưng thời gian ngay sau đó, đất nước ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, tất cả sức người, sức của đều được tập trung ưu tiên cho mục tiêu cao cả là giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước cho nên các quan hệ dân sự ít có điều kiện phát triển, không có các văn bản pháp luật để thể chế hóa quyền sở hữu của công dân. Các quan hệ xã hội mang tính dân sự trong giai đoạn này ít được chú trọng và phải chịu ảnh hưởng sâu sắc của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, biện pháp hành chính được sử dụng phổ biến làm biến dạng các quan hệ dân sự. Có thể nói, ngoài việc quyền sở hữu được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1959, gần như các vật quyền khác đều không được ghi nhận trong các văn bản pháp luật. Giai đoạn này, Nhà nước chủ yếu tập trung công cuộc kháng chiến cứu nước, nền kinh tế được kế hoạch hóa tập trung, việc điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu thông qua biện pháp hành chính, mệnh lệnh, do đó, các quan hệ kinh tế mang tính chất dân sự thời kỳ này rất kém phát triển. Dẫn đến, các vật quyền không được ghi nhận một cách cụ thể và hầu như không có văn bản pháp luật quy định về các vật quyền ngoài quyền sở hữu. Trong giai đoạn chiến tranh, đất nước ta bị chia tách thành hai miền Nam, Bắc. Miền Nam dưới chế độ Việt Nam cộng hòa đã ban hành Bộ Dân luật năm 1972. Bộ Dân luật này cũng đã ghi nhận phân loại tài sản thành động sản và bất động sản, từ đó thiết lập nên hệ thống các vật quyền trên động sản và bất động sản. Cụ thể, Điều 369 Bộ Dân luật năm 1972 quy định: “...Các vật quyền trên bất động sản: Quyền sở hữu; quyền dụng ích; quyền cư ngụ và hành dụng; quyền thuê trường kỳ; quyền địa dịch; quyền thế chấp; quyền để đương...”.
Có thể nói, chế định vật quyền đã từng được áp dụng trên phạm vi lãnh thổ đất nước ta tuỳ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử nhất định. Vậy là, vấn đề quy định liên quan đến vật quyền xét về thời gian thì đã từng được áp dụng ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Tuy nhiên, kể từ khi nước ta hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước thì những quy định về vật quyền chưa được xây dựng thành hệ thống, chưa được đưa vào quy định pháp luật để áp dụng đầy đủ các vật quyền.
Bộ luật Dân sự của Việt Nam các năm 1995 và 2005 đều không có quy định về vật quyền nhưng trong đó vẫn ghi nhận các quyền cơ bản trong hệ thống vật quyền như quyền sở hữu, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề (quyền địa dịch). Trong một số bản dự thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005 đã có ghi nhận về chế định vật quyền, ví dụ quy định “Phần thứ 2 - Vật quyền”, “Phần thứ 2 - Quyền sở hữu và các vật quyền khác”[12]. Như vậy, có thể thấy, tư duy xây dựng pháp luật dân sự trên cơ sở hệ thống vật quyền - trái quyền đã được hình thành trong quá trình phát triển của luật dân sự cho đến nay. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 thì lại ghi nhận “Phần thứ 2 - Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản”. Mặc dù pháp luật thực định không ghi nhận về khái niệm vật quyền nhưng bản chất các quyền mà Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận đều chính là vật quyền. Việc không sử dụng khái niệm vật quyền trong Bộ luật Dân sự năm 2015 vì những lý do khác nhau nhưng không làm mất đi bản chất thật sự của các vật quyền được ghi nhận trong Bộ luật này, đó chính là các quyền sở hữu, quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt. Việc không sử dụng thuật ngữ “vật quyền” trong Bộ luật Dân sự năm 2015 để quy định cho các quyền đối vật có thể sẽ không thể hiện rõ hết được bản chất của các vật quyền này. Để làm rõ vấn đề này, chúng ta cần nhìn nhận tổng quan chung nhất về mối quan hệ giữa các yếu tố: Chủ thể trong luật dân sự, vật, hành vi. Trong quan hệ tài sản mà luật dân sự điều chỉnh gồm quan hệ: (i) Giữa người với người; (ii) Giữa người với vật. Theo cách hiểu truyền thống, quan hệ giữa người với người là “quyền đối nhân”, quan hệ giữa người với vật là “quyền đối vật” hay “vật quyền”. Trong vật quyền, người có vật quyền được trực tiếp thi hành, ngay lập tức, không vấp phải sự cản trở nào khác trên tài sản là đối tượng của quyền. Quyền sở hữu là vật quyền quan trọng nhất và là trung tâm của hệ thống vật quyền. Xét về cả ngôn ngữ và mặt pháp lý, câu nói “tôi có quyền sở hữu ngôi nhà” là một câu nói có nghĩa hoàn chỉnh, thể hiện hoàn toàn được mối quan hệ giữa người chủ sở hữu và vật (ngôi nhà) mà không phải thêm một ai khác vào câu nói đó[13]. Nếu pháp luật không thừa nhận thuật ngữ “vật quyền” thì khó có thể làm nổi bật được mối quan hệ giữa chủ sở hữu và vật trong ví dụ vừa nêu. Một thực tế là, luật dân sự là ngành luật mang tính triết lý cao, có tính lý luận, là ngành luật căn bản của hệ thống luật tư, cung cấp các kỹ thuật pháp lý cho các ngành luật khác. Nếu không sử dụng thuật ngữ “vật quyền” thì khó có thể tìm được một thuật ngữ nào khác thay thế mà có khả năng mô tả chính xác tính chất của loại quyền được thi hành trực tiếp trên vật[14]. Rất tiếc, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã không sử dụng thuật ngữ vật quyền.
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Phần thứ 2 - Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản”. Việc quy định như vậy có điểm chưa hợp lý. Nếu quy định hai vế “quyền sở hữu” và “quyền khác đối với tài sản” thì vô hình trung đã đặt “quyền sở hữu” đứng ngang hàng với các vật quyền khác mà không thấy được mối liên hệ có tính phái sinh giữa quyền sở hữu với các vật quyền khác. Quy định tiêu đề “quyền khác đối với tài sản” mà nội hàm chỉ ghi nhận quyền sở hữu và ba quyền khác (quyền bề mặt, quyền hưởng dụng, quyền đối với bất động sản liền kề) như trong Bộ luật Dân sự năm 2015 thì lại chưa đầy đủ. Cụm từ “quyền khác đối với tài sản” còn có thể được hiểu ngoài những quyền đã nêu trên còn có thể bao gồm rất nhiều quyền khác như quyền của bên thuê trong hợp đồng thuê tài sản, quyền của bên giữ tài sản trong hợp đồng gửi giữ tài sản, quyền của bên vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển tài sản…
Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2015 không ghi nhận và sử dụng thuật ngữ “vật quyền” nhưng trong Bộ luật này lại quy định về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản lại chính là những vật quyền. Có thể khẳng định rằng, có sự tồn tại khách quan của các quyền của một chủ thể đối với vật (tài sản) trong đời sống dân sự. Việc tồn tại khách quan của các quyền này sẽ không bị hạn chế bởi tên gọi mà pháp luật mỗi quốc gia đưa ra để xây dựng khái niệm về các quyền đối vật. Ví dụ: Pháp luật dân sự của các nước Pháp, Nga, Đức sử dụng tên gọi “vật quyền” trong khi pháp luật Việt Nam sử dụng “quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản” để nói về các vật quyền; pháp luật dân sự các nước Pháp, Nhật sử dụng “địa dịch”, pháp luật Việt Nam sử dụng “quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề” hoặc “quyền đối với bất động sản liền kề” để chỉ cùng một nội dung quyền… Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, cần đưa ra một khái niệm định danh phù hợp để biểu thị cho các quyền đối với tài sản mà có tính trực tiếp, tuyệt đối, không phụ thuộc vào người khác như đã nêu trên. Một nghiên cứu lịch sử cho thấy khái niệm “vật quyền” đã tồn tại từ thời pháp luật La Mã. Ở đây, chủ thể có vật quyền được ghi nhận hai quyền cơ bản sau: Quyền truy đòi (droit de suite) và quyền ưu tiên (droit de préférence)[15]. Chúng ta có thể thấy rằng, khái niệm vật quyền đã tồn tại từ cách đây rất lâu và có tính lịch sử của nó. Do vậy, khái niệm “vật quyền” cũng sẽ là khái niệm phù hợp để diễn đạt nội hàm tất cả quyền đối vật ẩn chứa trong khái niệm này. Tuy nhiên, vì những lý do khác nhau mà trong pháp luật dân sự Việt Nam đã không được thống nhất sử dụng thuật ngữ “vật quyền” để pháp điển hóa trong Bộ luật Dân sự.
3. Kiến nghị đối với việc hoàn thiện pháp luật dân sự
Với những luận bàn như trên về khái niệm vật quyền, tác giả nêu lên những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật dân sự cũng như Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
- Pháp luật dân sự Việt Nam cần ghi nhận chế định vật quyền thành một chế định cụ thể, riêng biệt. Có thể việc ghi nhận này trong tương lai gần sẽ thay thế quy định “Phần thứ 2 - Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản” thành chế định “Vật quyền”.
- Cần có những nghiên cứu cụ thể về hệ thống vật quyền, làm rõ mối liên hệ nội tại, hữu cơ giữa các vật quyền, từ đó có thể thể chế hóa các quyền này vào trong Bộ luật Dân sự một cách có tính hệ thống và nằm trong mối liên hệ với nhau.
- Pháp luật dân sự cần ghi nhận các vật quyền trong một chế định để có thể thấy được sự liên hệ nội tại giữa các vật quyền với nhau, đảm bảo thống nhất chung đối với các quy định về vật quyền.
- Cần ghi nhận đầy đủ các vật quyền trong pháp luật dân sự. Ví dụ: Bộ luật Dân sự năm 2015 chưa ghi nhận quyền của người nhận cầm cố, thế chấp dưới góc độ là một vật quyền.
- Cần phải ghi nhận rõ ràng về quyền địa dịch để có thể thay thế cho quy định về quyền đối với bất động sản liền kề.
1. Khái niệm về vật quyền
Các quyền đối vật là những quyền được tồn tại một cách khách quan trong đời sống xã hội dân sự. Theo lẽ tự nhiên, con người muốn tồn tại được thì phải tìm mọi cách để đáp ứng các nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của mình. Trước tiên, các nhu cầu vật chất, tinh thần cơ bản của con người phải kể đến như có lương thực để ăn, có nhà để ở, có quần áo để mặc, có xe cộ để đi lại, có ruộng vườn để cày cấy... Con người bằng lao động mà tác động vào thế giới tự nhiên để tạo ra các vật thể nhằm đáp ứng được nhu cầu của mình. Trong thế giới vật chất, các vật chất có thể sẵn có trong tự nhiên (đất đai, nước, kim loại…) hoặc cũng có thể do hoạt động lao động của con người tạo nên (xe cộ, nhà cửa, quần áo…). Các vật chất thời kỳ sơ khởi của loài người chủ yếu tồn tại dưới dạng “vật”, thông thường và chủ yếu là các vật hữu hình như nhà cửa, bàn ghế, thức ăn… Thời kỳ này chưa xuất hiện các loại tài sản mang tính chất vô hình như quyền sở hữu trí tuệ… Để các vật thể này có thể đáp ứng được nhu cầu cho mình thì người có vật phải được quyền làm chủ nó, tức là phải có toàn quyền tác động trực tiếp lên vật theo ý chí và nguyện vọng của mình, đồng thời phải có quyền bảo vệ trước những hành vi xâm phạm từ người khác, phải có quyền không cho phép những người khác tiếp cận cũng như quản lý, khai thác, sử dụng tài sản đó. Nhà nước phải thông qua pháp luật mà quy định cho họ những quyền nhất định trong việc ứng xử đối với tài sản của mình (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt) cũng như cấm, ngăn chặn những người khác thực hiện các hành vi làm ảnh hưởng đến quá trình thực hiện quyền của người có vật. Tóm lại, Nhà nước phải hỗ trợ người có vật bằng cách ban hành chế định quyền sở hữu để tạo cơ sở pháp lý cho người có vật thống trị đối với tài sản của mình và loại trừ khả năng người khác có thể xâm phạm đến quá trình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Đó là lý do phát sinh quyền sở hữu với tư cách là quyền thống trị của một người đối với tài sản của mình và loại trừ tất cả những người khác thoát khỏi quá trình thực hiện quyền thống trị này[1]. Như vậy, pháp luật các nước trên thế giới đều mong muốn đảm bảo cho mọi công dân có được những quyền cơ bản quan trọng nhất của con người, trong đó có quyền đối với tài sản (vật) hợp pháp của mình.
Phải nói rằng, vấn đề sở hữu luôn là vấn đề then chốt trong pháp luật dân sự không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với tất cả nước khác trên thế giới. Các quan hệ tài sản luôn xuất phát từ quan hệ sở hữu và cũng vì quan hệ sở hữu, quan hệ sở hữu là tiền đề, là xuất phát điểm cho tính hợp pháp của các quan hệ khác[2]. Trong sự phát triển chung của xã hội dân sự, nhu cầu của con người ngày càng cao thì cần phải có những cách thức đa dạng, khác nhau để con người có thể đạt được những lợi ích vật chất, tinh thần nhất định cho mình. Một sự thật hiển nhiên trong đời sống xã hội là nhu cầu của con người ngày càng tăng cao, rất đa dạng, phong phú nhưng thực tế trái ngược là không phải bất kỳ người nào cũng có được tài sản của riêng mình để nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất, tinh thần mà mình mong muốn. Vì vậy, họ chỉ có thể thỏa mãn nhu cầu của mình thông qua việc sử dụng tài sản của người khác. Ngược lại, người có tài sản thì không phải bao giờ cũng có nhu cầu trực tiếp sử dụng, khai thác tài sản của mình. Do đó, xuất hiện sự “gặp nhau” về mặt nguyện vọng cũng như lợi ích giữa người có tài sản và người không có tài sản trong việc khai thác công dụng của tài sản. Ví dụ, chủ sở hữu tài sản có thể cho người khác một vài quyền trên tài sản của mình và người này được phép thực hiện các quyền ấy trên tài sản được giao theo quy định của pháp luật và theo ý chí chủ sở hữu. Các quyền này có nội dung khác nhau, có phạm vi áp dụng khác nhau nhưng đều giống nhau ở chỗ chúng đều phái sinh từ quyền sở hữu và có nội dung hẹp hơn quyền sở hữu…[3]. Vậy, có thể khẳng định rằng, ngoài quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu thì vẫn tồn tại những loại quyền khác đối với tài sản. Các loại quyền khác đối với tài sản cho phép các chủ thể khác không phải là chủ sở hữu có quyền khai thác, sử dụng tài sản của chủ sở hữu để đạt được những lợi ích nhất định. Các quyền này đều có mối liên hệ chung với quyền sở hữu và được phái sinh từ quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản. Tóm lại, một xã hội dân sự phát triển đến một trình độ nhất định thì khách quan đưa lại là có sự tồn tại các quyền đối với tài sản, trong đó bao gồm quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản và các quyền tài sản khác đối với tài sản của một chủ sở hữu nhất định.
Các loại vật quyền đã được ghi nhận từ cách đây hằng trăm năm khi mà các quan hệ dân sự được phát triển mạnh mẽ. Pháp luật La Mã đã có những quy định gắn với nhóm hành vi cụ thể tác động lên tài sản. Pháp luật La Mã chia thành hai nhóm: Nhóm các quy phạm thường xuyên hoặc trực tiếp trao cho một số người nhất định quyền sử dụng toàn phần hoặc một phần các đồ vật vì lợi ích của bản thân mình; nhóm các quy phạm tạo quyền cho một số người có quyền yêu cầu các cá nhân khác thực hiện hành vi nào đó để mang lại lợi tức. Trong các nguồn luật La Mã, nhóm thứ nhất của quyền tài sản được gọi là jura in re (vật quyền), nhóm thứ hai - in persona (quyền đối với cá nhân)… Từ thời gian đó, vật quyền hay jura in re được xác định như là một tập hợp các nguyên tắc, xác lập thẩm quyền trực tiếp và thường xuyên của các chủ thể riêng biệt đối với một phần hoặc toàn bộ tài sản[4]. Như vậy, quyền đối với vật (real right) và quyền yêu cầu (right under an obligation - trái quyền) đã được tồn tại từ trong pháp luật La Mã. Trên cơ sở các quy định vật quyền, pháp luật đã xác lập thẩm quyền (quyền năng) trực tiếp và thường xuyên của chủ thể - người có quyền sử dụng toàn bộ hay một phần hoặc toàn bộ đồ vật nằm trong các quan hệ vật quyền vì lợi ích của mình[5]. Các luật gia La Mã không nêu ra định nghĩa về vật quyền nhưng khái niệm vật quyền và trái quyền đã tồn tại từ thời kỳ La Mã (cách đây hơn 2.000 năm). Đến thời kỳ cận đại, Bộ luật Dân sự đầu tiên và nổi tiếng trên thế giới (Bộ luật Napoleon - 1804) cũng đã ghi nhận về các vật quyền ngay trong phần thứ 2 (vật quyền) của Bộ luật này. Do vậy, có thể thấy, khái niệm vật quyền không phải là cái mà người ta “nghĩ ra cho vui” mà nó đòi hỏi từ thực tiễn. Nó là sản phẩm tất yếu của lịch sử chứ không phải tư duy ngẫu hứng của các luật gia[6].
Thông thường, có thể hiểu khái niệm vật quyền thông qua việc nhìn nhận sự đối lập giữa vật quyền và trái quyền. Trong quan niệm la tinh, vật quyền (jus in re) được hiểu là quyền được chủ thể (người có quyền) thực hiện trực tiếp và tức thì trên một vật mà không cần vai trò trung gian của một người khác[7]. Dưới góc độ cụ thể nào đó, vật quyền đối lập với trái quyền. Vật quyền có tính chất tuyệt đối nên mọi người phải tôn trọng quyền của người có vật quyền. Trong khi đó, tính chất tương đối của trái quyền cho phép trái chủ tác động, yêu cầu đối với một chủ thể xác định, tức là trái quyền có hiệu lực đối với một người hoặc một nhóm người nhất định mà không phải là đối với tất cả mọi người. Thông qua việc phân biệt vật quyền và trái quyền, chúng ta có thể nhận thấy những tính chất khác biệt của vật quyền, với nghĩa là quyền tác động trực tiếp, tuyệt đối lên tài sản của một chủ thể nào đó (người là chủ sở hữu hoặc không phải là chủ sở hữu tài sản).
Khái niệm vật quyền cần được nhìn nhận ở hai góc độ chủ quan và khách quan. Theo nghĩa chủ quan thì vật quyền là quyền của một chủ thể nhất định đối với một tài sản nhất định, cho phép chủ thể này trực tiếp thực hiện các quyền năng được pháp luật thừa nhận đối với tài sản đó. Theo nghĩa này, vật quyền là quyền đối vật, khác với trái quyền là quyền của một người yêu cầu một người khác thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định (quyền đối nhân). Theo nghĩa khách quan thì vật quyền là toàn bộ các quy phạm pháp luật quy định về vật với tư cách là đối tượng của quyền, về các loại vật quyền và nội dung của từng loại vật quyền, về căn cứ phát sinh, chấm dứt các loại vật quyền, nguyên tắc thực hiện, bảo vệ vật quyền, về các hạn chế quyền mà người có vật quyền phải tuân thủ khi thực hiện các quyền năng của mình[8].
Để hiểu rõ hơn khái niệm về vật quyền thì cần làm rõ được đối tượng tác động của các vật quyền bao gồm những gì. Nội dung của vật quyền chính là thể hiện cụ thể mối quan hệ giữa chủ thể của quyền (con người) và đối tượng của quyền (vật). Trên thực tế, đối tượng của quyền (vật) đã có những chuyển biến nhất định cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phát triển của xã hội, khi mà của cải trong xã hội được làm ra nhiều hơn, đa dạng hơn, phong phú hơn. Do vậy, đối tượng của quyền là vật không còn phù hợp nữa trong thực tiễn đời sống ngày nay, bởi đối tượng của quyền có thể là những tài sản mang tính chất hữu hình (xe, quần áo, đồ ăn…) và tài sản mang tính chất vô hình (quyền sử dụng đất, quyền sở hữu đối với phát minh, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa…). Như vậy, khái niệm tài sản được hiểu bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản không thể bao trùm hết được các loại tài sản trong giao lưu dân sự.
Tài sản là một phạm trù động mà phạm vi của nó có thể thay đổi theo các giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội nhất định. Do đó người ta không thể định nghĩa tài sản theo cách thức định nghĩa khái niệm của logic hình thức. Tuy nhiên, ngày nay người ta có thể mô tả tài sản theo phân loại. Tài sản hoặc là hữu hình hoặc là vô hình hoặc là bất động sản hoặc là động sản. Như vậy, tài sản bao gồm: Bất động sản hữu hình, bất động sản vô hình và động sản hữu hình, động sản vô hình. Tài sản hữu hình là vật. Còn tài sản vô hình là quyền. Lưu ý rằng, vật ở đây với nghĩa là những bộ phận khác nhau của thế giới vật chất có khả năng đáp ứng nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của con người và đã được quan hệ xã hội hóa. Tài sản vô hình hay còn gọi là quyền tài sản bao gồm: Quyền đối vật (vật quyền), quyền đối nhân (trái quyền) và quyền sở hữu trí tuệ[9]. Với việc nhìn nhận về tài sản như trên có thể thấy, đối tượng của vật quyền không chỉ đơn giản là “vật hữu hình” như quan niệm trong pháp luật thời kỳ trước đây. Một nghiên cứu cho rằng, đối tượng của vật quyền không chỉ được hình dung là một vật cụ thể, mà vật quyền được hiểu là quyền của một chủ thể đối với một tài sản[10], cho phép chủ thể trực tiếp thực hiện các quyền năng được pháp luật thừa nhận đối với một tài sản.
Có thể làm rõ hơn về khái niệm vật quyền thông qua việc nghiên cứu quy định về tài sản trong pháp luật La Mã được ghi nhận trong cuốn “A manual of the priciples of Roman Law relating to persons, property and obligation” xuất bản từ năm 1915 bởi nhà xuất bản W. Green & Son, Edinburgh. Theo đó, một thứ gì đó (thing) được nhìn nhận là vật (res) trong luật La Mã là thứ mà người La Mã dùng để nói đến tài sản thuộc sở hữu của một người nào đó (person’s property). Vật (res) trong luật La Mã không chỉ là vật với nghĩa “vật chất” và “hữu hình” mà còn bao gồm cả những thứ “phi vật chất” và “vô hình” giống như quyền đối với tài sản. Nói cách khác, tài sản (res) trong luật La Mã dùng để chỉ tất cả những thứ mà có thể là đối tượng của một quyền hoặc thông qua nó để các quyền được thực hiện bởi các chủ thể, bao gồm các đối tượng vật chất (vật) và tài sản vô hình (quyền) như quyền thừa kế, dịch quyền…[11].
Từ những lập luận trên, theo quan điểm tác giả, khái niệm “vật quyền” cần được hiểu theo nghĩa rộng, đó là quyền của một chủ thể bằng hành vi của mình tác động trực tiếp lên tài sản theo ý chí của mình mà không bị cản trở bởi bất kỳ người nào khác trong xã hội, nhằm thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích của mình.
2. Quy định về vật quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam
Quyền của một chủ thể nhất định đối với tài sản của mình cần được pháp luật bảo vệ và phải được tôn trọng từ các chủ thể khác trong xã hội là một tất yếu khách quan trong đời sống xã hội dân sự. Những quyền cơ bản của một chủ thể đối với tài sản của mình đã được ghi nhận ở văn bản luật có giá trị cao nhất, cơ bản nhất đó là Hiến pháp. Các bản Hiến pháp của nước ta được ban hành vào các năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 đều có những quy định ghi nhận những quyền cơ bản nhất của công dân, trong đó có quyền sở hữu tài sản. Ngay từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945, bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã ghi nhận rất cụ thể tại Điều thứ 12: “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Đến Hiến pháp năm 2013, các quyền cơ bản này lại được ghi nhận cụ thể hơn, ví dụ, Điều 32 quy định: “1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế; 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”; Điều 34 quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Như vậy, pháp luật nước ta đã đảm bảo cho mọi công dân có được những quyền cơ bản quan trọng nhất của con người, trong đó có quyền đối với tài sản hợp pháp của mình.
Tìm hiểu trong lịch sử quá trình phát triển của đất nước, các Bộ luật Dân sự được áp dụng trên lãnh thổ Việt Nam qua nhiều thời kỳ trước đây cũng đều đã có những quy định về vật quyền. Điển hình, Bộ Dân luật Bắc Kì năm 1931 đã có nhưng quy định chung về quyền sở hữu, quyền ứng dụng thu lợi (Điều 556), quyền dùng và quyền ở (Điều 588), quyền địa dịch (Điều 602)… Bộ Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật năm 1936 cũng có quy định khá đầy đủ về các vật quyền như Điều thứ 629 về địa dịch; Điều thứ 1512 về cầm cố; Điều thứ 1527 về thế chấp… Ở một góc độ nào đó, chúng ta có thể nhìn thấy ở thời kỳ Pháp thuộc, các vật quyền đã được ghi nhận trong pháp luật dân sự thông qua các bộ luật nêu trên. Các vật quyền đã được ghi nhận rất cụ thể, rõ ràng trong pháp luật thời Pháp thuộc, tạo thành những quyền tài sản để phục vụ cho một xã hội dân sự phát triển ở thời kỳ này. Để minh chứng cho nhận định này, có thể viện dẫn một số điều luật quy định trong Bộ Hoàng Việt Trung Kì hộ luật năm 1936. Cụ thể, Điều thứ 464 quy định như sau: “Các thứ vì quyền sở - dụng thuộc về bất động sản mà thành ra bất động sản là: A) Những vật quyền thuộc về bất động sản như sau này: 1) quyền sở hữu; 2) quyền hưởng dụng thu lợi; 3) quyền dùng và quyền ở; 4) quyền cho thuê dài hạn; 5) quyền địa dịch; 6) quyền cầm cố bất động sản; 7) quyền để đương…”; Điều thứ 469 quy định: “Các thứ vì pháp luật chỉ định mà là bất động sản là: 1) Những vật quyền thuộc về động sản và quyền đi kiện để đòi hay là truy về một động sản”. Như vậy, có thể thấy rằng, pháp luật dân sự giai đoạn này đã có hầu hết quy định về vật quyền. Các quy định về vật quyền góp phần đảm bảo cho đời sống giao lưu dân sự thời kỳ này sôi động và phong phú hơn giai đoạn xã hội trước đó.
Do điều kiện, hoàn cảnh đất nước xảy ra cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để điều hành Nhà nước và điều chỉnh các giao lưu dân sự trong điều kiện mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nhiều sắc lệnh, trong đó có Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950. Theo đó, những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành sự nó đúng với quyền lợi của nhân dân. Điều 14 Sắc lệnh số 97/SL quy định: Tất cả các điều khoản trong dân pháp điển Bắc Kì, dân pháp điển Trung Kì, Pháp quy giản yếu 1883 (Sắc lệnh ngày 03/10/1883) thi hành ở Nam Kì và những luật lệ theo sau, trái với những điều khoản trên này đều bị bãi bỏ. Như vậy, kể từ sau khi ban hành Sắc lệnh số 97/SL thì vai trò của các Bộ luật Dân sự thời Pháp thuộc trước đây chỉ còn được áp dụng hạn chế ở phạm vi những điều luật phù hợp với quy định tại Sắc lệnh trên. Tuy nhiên, do điều kiện đất nước tiến hành chiến tranh kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945 – 1954, cùng với điều kiện về kinh tế - xã hội nghèo nàn ở giai đoạn này, giao lưu dân sự trong xã hội chưa được đẩy mạnh nên việc xây dựng và ban hành các quy định về pháp luật dân sự là không nhiều.
Hiến pháp năm 1959 ra đời, quyền sở hữu của công dân được ghi nhận nhưng thời gian ngay sau đó, đất nước ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, tất cả sức người, sức của đều được tập trung ưu tiên cho mục tiêu cao cả là giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước cho nên các quan hệ dân sự ít có điều kiện phát triển, không có các văn bản pháp luật để thể chế hóa quyền sở hữu của công dân. Các quan hệ xã hội mang tính dân sự trong giai đoạn này ít được chú trọng và phải chịu ảnh hưởng sâu sắc của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, biện pháp hành chính được sử dụng phổ biến làm biến dạng các quan hệ dân sự. Có thể nói, ngoài việc quyền sở hữu được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1959, gần như các vật quyền khác đều không được ghi nhận trong các văn bản pháp luật. Giai đoạn này, Nhà nước chủ yếu tập trung công cuộc kháng chiến cứu nước, nền kinh tế được kế hoạch hóa tập trung, việc điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu thông qua biện pháp hành chính, mệnh lệnh, do đó, các quan hệ kinh tế mang tính chất dân sự thời kỳ này rất kém phát triển. Dẫn đến, các vật quyền không được ghi nhận một cách cụ thể và hầu như không có văn bản pháp luật quy định về các vật quyền ngoài quyền sở hữu. Trong giai đoạn chiến tranh, đất nước ta bị chia tách thành hai miền Nam, Bắc. Miền Nam dưới chế độ Việt Nam cộng hòa đã ban hành Bộ Dân luật năm 1972. Bộ Dân luật này cũng đã ghi nhận phân loại tài sản thành động sản và bất động sản, từ đó thiết lập nên hệ thống các vật quyền trên động sản và bất động sản. Cụ thể, Điều 369 Bộ Dân luật năm 1972 quy định: “...Các vật quyền trên bất động sản: Quyền sở hữu; quyền dụng ích; quyền cư ngụ và hành dụng; quyền thuê trường kỳ; quyền địa dịch; quyền thế chấp; quyền để đương...”.
Có thể nói, chế định vật quyền đã từng được áp dụng trên phạm vi lãnh thổ đất nước ta tuỳ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử nhất định. Vậy là, vấn đề quy định liên quan đến vật quyền xét về thời gian thì đã từng được áp dụng ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Tuy nhiên, kể từ khi nước ta hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước thì những quy định về vật quyền chưa được xây dựng thành hệ thống, chưa được đưa vào quy định pháp luật để áp dụng đầy đủ các vật quyền.
Bộ luật Dân sự của Việt Nam các năm 1995 và 2005 đều không có quy định về vật quyền nhưng trong đó vẫn ghi nhận các quyền cơ bản trong hệ thống vật quyền như quyền sở hữu, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề (quyền địa dịch). Trong một số bản dự thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005 đã có ghi nhận về chế định vật quyền, ví dụ quy định “Phần thứ 2 - Vật quyền”, “Phần thứ 2 - Quyền sở hữu và các vật quyền khác”[12]. Như vậy, có thể thấy, tư duy xây dựng pháp luật dân sự trên cơ sở hệ thống vật quyền - trái quyền đã được hình thành trong quá trình phát triển của luật dân sự cho đến nay. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 thì lại ghi nhận “Phần thứ 2 - Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản”. Mặc dù pháp luật thực định không ghi nhận về khái niệm vật quyền nhưng bản chất các quyền mà Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận đều chính là vật quyền. Việc không sử dụng khái niệm vật quyền trong Bộ luật Dân sự năm 2015 vì những lý do khác nhau nhưng không làm mất đi bản chất thật sự của các vật quyền được ghi nhận trong Bộ luật này, đó chính là các quyền sở hữu, quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt. Việc không sử dụng thuật ngữ “vật quyền” trong Bộ luật Dân sự năm 2015 để quy định cho các quyền đối vật có thể sẽ không thể hiện rõ hết được bản chất của các vật quyền này. Để làm rõ vấn đề này, chúng ta cần nhìn nhận tổng quan chung nhất về mối quan hệ giữa các yếu tố: Chủ thể trong luật dân sự, vật, hành vi. Trong quan hệ tài sản mà luật dân sự điều chỉnh gồm quan hệ: (i) Giữa người với người; (ii) Giữa người với vật. Theo cách hiểu truyền thống, quan hệ giữa người với người là “quyền đối nhân”, quan hệ giữa người với vật là “quyền đối vật” hay “vật quyền”. Trong vật quyền, người có vật quyền được trực tiếp thi hành, ngay lập tức, không vấp phải sự cản trở nào khác trên tài sản là đối tượng của quyền. Quyền sở hữu là vật quyền quan trọng nhất và là trung tâm của hệ thống vật quyền. Xét về cả ngôn ngữ và mặt pháp lý, câu nói “tôi có quyền sở hữu ngôi nhà” là một câu nói có nghĩa hoàn chỉnh, thể hiện hoàn toàn được mối quan hệ giữa người chủ sở hữu và vật (ngôi nhà) mà không phải thêm một ai khác vào câu nói đó[13]. Nếu pháp luật không thừa nhận thuật ngữ “vật quyền” thì khó có thể làm nổi bật được mối quan hệ giữa chủ sở hữu và vật trong ví dụ vừa nêu. Một thực tế là, luật dân sự là ngành luật mang tính triết lý cao, có tính lý luận, là ngành luật căn bản của hệ thống luật tư, cung cấp các kỹ thuật pháp lý cho các ngành luật khác. Nếu không sử dụng thuật ngữ “vật quyền” thì khó có thể tìm được một thuật ngữ nào khác thay thế mà có khả năng mô tả chính xác tính chất của loại quyền được thi hành trực tiếp trên vật[14]. Rất tiếc, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã không sử dụng thuật ngữ vật quyền.
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Phần thứ 2 - Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản”. Việc quy định như vậy có điểm chưa hợp lý. Nếu quy định hai vế “quyền sở hữu” và “quyền khác đối với tài sản” thì vô hình trung đã đặt “quyền sở hữu” đứng ngang hàng với các vật quyền khác mà không thấy được mối liên hệ có tính phái sinh giữa quyền sở hữu với các vật quyền khác. Quy định tiêu đề “quyền khác đối với tài sản” mà nội hàm chỉ ghi nhận quyền sở hữu và ba quyền khác (quyền bề mặt, quyền hưởng dụng, quyền đối với bất động sản liền kề) như trong Bộ luật Dân sự năm 2015 thì lại chưa đầy đủ. Cụm từ “quyền khác đối với tài sản” còn có thể được hiểu ngoài những quyền đã nêu trên còn có thể bao gồm rất nhiều quyền khác như quyền của bên thuê trong hợp đồng thuê tài sản, quyền của bên giữ tài sản trong hợp đồng gửi giữ tài sản, quyền của bên vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển tài sản…
Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2015 không ghi nhận và sử dụng thuật ngữ “vật quyền” nhưng trong Bộ luật này lại quy định về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản lại chính là những vật quyền. Có thể khẳng định rằng, có sự tồn tại khách quan của các quyền của một chủ thể đối với vật (tài sản) trong đời sống dân sự. Việc tồn tại khách quan của các quyền này sẽ không bị hạn chế bởi tên gọi mà pháp luật mỗi quốc gia đưa ra để xây dựng khái niệm về các quyền đối vật. Ví dụ: Pháp luật dân sự của các nước Pháp, Nga, Đức sử dụng tên gọi “vật quyền” trong khi pháp luật Việt Nam sử dụng “quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản” để nói về các vật quyền; pháp luật dân sự các nước Pháp, Nhật sử dụng “địa dịch”, pháp luật Việt Nam sử dụng “quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề” hoặc “quyền đối với bất động sản liền kề” để chỉ cùng một nội dung quyền… Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, cần đưa ra một khái niệm định danh phù hợp để biểu thị cho các quyền đối với tài sản mà có tính trực tiếp, tuyệt đối, không phụ thuộc vào người khác như đã nêu trên. Một nghiên cứu lịch sử cho thấy khái niệm “vật quyền” đã tồn tại từ thời pháp luật La Mã. Ở đây, chủ thể có vật quyền được ghi nhận hai quyền cơ bản sau: Quyền truy đòi (droit de suite) và quyền ưu tiên (droit de préférence)[15]. Chúng ta có thể thấy rằng, khái niệm vật quyền đã tồn tại từ cách đây rất lâu và có tính lịch sử của nó. Do vậy, khái niệm “vật quyền” cũng sẽ là khái niệm phù hợp để diễn đạt nội hàm tất cả quyền đối vật ẩn chứa trong khái niệm này. Tuy nhiên, vì những lý do khác nhau mà trong pháp luật dân sự Việt Nam đã không được thống nhất sử dụng thuật ngữ “vật quyền” để pháp điển hóa trong Bộ luật Dân sự.
3. Kiến nghị đối với việc hoàn thiện pháp luật dân sự
Với những luận bàn như trên về khái niệm vật quyền, tác giả nêu lên những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật dân sự cũng như Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
- Pháp luật dân sự Việt Nam cần ghi nhận chế định vật quyền thành một chế định cụ thể, riêng biệt. Có thể việc ghi nhận này trong tương lai gần sẽ thay thế quy định “Phần thứ 2 - Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản” thành chế định “Vật quyền”.
- Cần có những nghiên cứu cụ thể về hệ thống vật quyền, làm rõ mối liên hệ nội tại, hữu cơ giữa các vật quyền, từ đó có thể thể chế hóa các quyền này vào trong Bộ luật Dân sự một cách có tính hệ thống và nằm trong mối liên hệ với nhau.
- Pháp luật dân sự cần ghi nhận các vật quyền trong một chế định để có thể thấy được sự liên hệ nội tại giữa các vật quyền với nhau, đảm bảo thống nhất chung đối với các quy định về vật quyền.
- Cần ghi nhận đầy đủ các vật quyền trong pháp luật dân sự. Ví dụ: Bộ luật Dân sự năm 2015 chưa ghi nhận quyền của người nhận cầm cố, thế chấp dưới góc độ là một vật quyền.
- Cần phải ghi nhận rõ ràng về quyền địa dịch để có thể thay thế cho quy định về quyền đối với bất động sản liền kề.
ThS. Lê Đăng Khoa
Đại học Kiểm sát Hà Nội
Đại học Kiểm sát Hà Nội
[1] PGS.TS. Dương Đăng Huệ (2015), Nên sử dụng khái niệm vật quyền trong Bộ luật Dân sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 13 (293)/2015, tr. 4 - 5.
[2] PGS.TS. Trần Thị Huệ, “Quyền sở hữu và quyền năng của chủ sở hữu”, chuyên đề cho Hội thảo khoa học cấp trường do Bộ môn Luật Dân sự, Khoa Pháp luật dân sự tổ chức ngày 11/12/2007.
[3] PGS.TS. Dương Đăng Huệ (2015), Nên sử dụng khái niệm vật quyền trong Bộ luật Dân sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 13 (293)/2015, tr. 5.
[4] TS. Nguyễn Ngọc Đào (2000), Luật La Mã, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, Đồng Nai, năm 2000, tr. 32.
[5] TS. Nguyễn Ngọc Đào (2000), Luật La Mã, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, Đồng Nai, tr. 32.
[6] http://baophapluat.vn/nhip-cau/dai-dien-bo-tu-phap-ly-giai-khai-niem-vat-quyen-va-trai-quyen-209439.html. Bài viết: Đại diện Bộ Tư pháp lý giải khái niệm “vật quyền” và “trái quyền”.
[7] Nguyễn Ngọc Điện (2010), “Sự cần thiết của việc xây dựng chế định vật quyền, trái quyền trong luật dân sự”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 23 (184) tháng 12/2010, tr. 56.
[8] PGS.TS. Dương Đăng Huệ (2015), Nên sử dụng khái niệm vật quyền trong Bộ luật Dân sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 13 (293)/2015, tr. 5.
[9] PGS. TS. Ngô Huy Cương, “Tổng luận về chế định tài sản trong Dự thảo Bộ luật Dân sự 2005 sửa đổi”, Kỷ yếu Toạ đàm khoa học “Chế định tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng trong dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi”, Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội, tháng 02/ 2015.
[10] Gullifer (L.) (ed), Goode on Legal Problems of Credit and Security, Sweet & Maxell, 4th edn, 2008, paras, 106 and 107 and 1-17 and seq.
[11] R.D. Mellville, A manual of the priciples of Roman Law relating to persons, property and obligation, nxb. W. Green & Son, Edinburgh, 1915, tr. 197.
[12] Xem: Dự thảo sửa đổi Bộ luật dân sự 2005 từ lần 1 đến lần 9.
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=588&LanID=1191&TabIndex=1.
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=588&LanID=1191&TabIndex=1.
[13] John. E. C. Brierley, Cases and Materials Relating to Civil Law Property IA, McGill University, 1997, p. viii.
[14] PGS.TS. Ngô Huy Cương, “Tổng luận về chế định tài sản trong dự thảo Bộ luật Dân sự 2005 sửa đổi”, Kỷ yếu Tọa đàm khoa học “Chế định tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng trong dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi”, Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội, tháng 02/ 2015.
[15] PGS.TS. Đỗ Văn 2015, tr. 58.