Tổng cục Thi hành án dân sự, các cơ quan thi hành án dân sự địa phương quan tâm và chỉ đạo thực hiện khá nghiêm túc, hiệu quả; nhiều vụ việc được chỉ đạo giải quyết dứt điểm ngay từ cơ sở; chất lượng giải quyết các vụ việc ở một số cơ quan thi hành án dân sự địa phương chuyển biến tích cực; việc thi thành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo ở một số địa phương tốt hơn trước, đạt tỷ lệ cao. Có được kết quả trên phải kể đến sự nỗ lực không ngừng và thái độ làm việc nghiêm túc, có trách nhiệm của cán bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thực tiễn giải quyết khiếu nại, tố cáo đã giúp cán bộ, công chức làm công tác này rút ra được nhiều bài học, kinh nghiệm, nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trong phạm vi bài viết này, tác giả nêu lên bài học kinh nghiệm từ giải quyết một vụ việc tố cáo.
1. Nội dung vụ việc
Ông C là người phải thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành, ngày 14/6/1995, chấp hành viên đã ban hành Quyết định cưỡng chế số 32/THA và ngày 17/6/1995 tổ chức kê biên tài sản nhà, đất của gia đình ông C và bà M tại xã V, huyện H, tỉnh T để đảm bảo thi hành án. Sau đó, chấp hành viên tiến hành các trình tự, thủ tục định giá tài sản. Ngày 15/7/1995, bán đấu giá thành tài sản kê biên với giá 15.114.000 đồng, người trúng đấu giá là ông N, trú tại thôn 1, xã V, huyện H, tỉnh T. Nhưng sau đó, ông N không nộp tiền mua tài sản và ông T đề nghị được mua tài sản trên để thi hành án. Ngày 25/8/1995, chấp hành viên đã giao tài sản cho người mua trúng đấu giá là ông T.
Như vậy, việc thi hành án dân sự đã kết thúc từ năm 1995. Tuy nhiên, đến tháng 01/2013, ông C, bà M tố cáo ông S - Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh T có hành vi vi phạm pháp luật khi ra quyết định thi hành án mà người được thi hành án không yêu cầu và không thực hiện việc ủy thác thi hành án khi người phải thi hành án có tài sản ở nơi khác. Giải quyết tố cáo của ông C, bà M, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh T đã thành lập đoàn xác minh nội dung tố cáo. Kết quả xác minh cho thấy, người được thi hành án có làm đơn yêu cầu thi hành án; biên bản xác minh của chấp hành viên xác định ông C cư trú ở xã V, chỉ có tài sản chung ở xã V, không có tài sản ở nơi khác. Do đó, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh T ban hành kết luận nội dung ông C, bà M tố cáo nêu trên là không có cơ sở.
Không nhất trí với kết luận trên, ông C, bà M tiếp tục đến địa điểm tiếp công dân của Bộ Tư pháp để tố cáo về 14 nội dung, trong đó có những nội dung đã được giải quyết, một số nội dung tố cáo mới, cụ thể:
Thứ nhất, có 8/14 nội dung tố cáo đã được giải quyết tại Kết luận nội dung tố cáo số 358/KL-CTHA ngày 16/5/2013 và Kết luận nội dung tố cáo số 106/KL-CTHA ngày 06/3/2015 của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh T, trong đó:
Nội dung tố cáo không có cơ sở gồm: (i) Chấp hành viên cưỡng chế lấy tài sản là nhà và đất ở riêng của bà M để thi hành án cho ông C là không có căn cứ pháp luật; (ii) Theo Quyết định thi hành án số 05/THA ngày 29/9/1994 thì Đơn yêu cầu thi hành án chỉ có một người ký, tuy nhiên lại được thi hành cho 4 người; (iii) Chấp hành viên không thực hiện việc ủy thác thi hành án đến cơ quan thi hành án có tài sản; (iv) Đất của bà M bị cơ quan thi hành án dân sự kê biên vượt quá diện tích; (v) Việc thông báo, tống đạt văn bản về cưỡng chế thi hành án.
Nội dung tố cáo có cơ sở gồm: (i) Quyết định thi hành án số 05/THA ngày 29/9/1994 có nội dung khác nhau giữa bản giao cho người phải thi hành án và bản lưu trong hồ sơ thi hành án; (ii) Chấp hành viên thực hiện định giá lần 2 ngày 25/8/1995 không có sự tham gia của đại diện cơ quan tài chính vật giá; (iii) Giấy báo tự nguyện thi hành án đã ghi sai số tiền trong bản án.
Thứ hai, có 5 nội dung tố cáo mới: (i) Đơn yêu cầu thi hành án không có ngày, tháng, năm; (ii) Vi phạm về đấu giá tài sản, bởi có nhiều người cùng trả một mức giá nhưng chỉ ông N là người trúng đấu giá; có 4 người tham gia phiên đấu giá không được mua lại tài sản khi ông N không nộp tiền mua tài sản, mà lại tùy tiện giao cho ông T - người không tham gia đấu giá; (iii) Biên bản giao tài sản căn cứ vào quyết định cưỡng chế không có thật, tại Biên bản ngày 25/8/1995 bàn giao nhà, đất cho ông T có ghi “căn cứ vào Quyết định cưỡng chế số 34 ngày 14/6/1995 của Đội Thi hành án” nhưng thực tế lại không có Quyết định cưỡng chế số 34, không có người giao tài sản, không có người làm chứng ký nhận là vi phạm về thủ tục; (iv) Công văn số 01/THA ngày 26/8/1994 của chấp hành viên ký ban hành khi có Quyết định thi hành án số 05/THA ngày 29/9/1994; (v) Biên bản định giá lần 1 ngày 05/7/1995 là bất hợp lý (riêng nội dung này Tổng cục Thi hành án dân sự đã chuyển đến Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh T để xem xét, giải quyết theo thẩm quyền tại Công văn số 2534/TCTHADS-GQKNTC ngày 29/7/2015).
Ngoài ra, ông C cho rằng, Kết luận nội dung tố cáo số 106/KL-CTHA của Cục Thi hành án dân sự tỉnh T có nội dung ghi: “... đến ngày 30/3/1995 ông C không tự nguyện… sẽ cưỡng chế tài sản theo pháp luật” là không đúng với Biên bản giải quyết thi hành án ngày 16/3/1995. Nội dung này, Tổng cục Thi hành án dân sự đã trả lời ông C, bà M tại Thông báo số 75/TB-GQKNTC ngày 02/10/2015 như sau: Nội dung Kết luận số 106/KL-CTHA của Cục Thi hành án dân sự tỉnh T có nội dung ghi: “Biên bản giải quyết thi hành án ngày 16/3/1995 thể hiện quan điểm của Đội Thi hành án dân sự huyện H nếu đến ngày 30/3/1995 ông C không tự nguyện thi hành án thì sẽ bị cưỡng chế tài sản theo quy định của pháp luật” là phù hợp với nội dung biên bản được trích dẫn tại Kết luận nêu trên.
2. Hướng giải quyết vụ việc
Để giải quyết tố cáo nêu trên, người làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đã rà soát lại toàn bộ hồ sơ thi hành án, hồ sơ giải quyết khiếu nại, tố cáo, đồng thời đối chiếu với quy định pháp luật và nhận thấy: Đối với các nội dung tố cáo đã được giải quyết tại Kết luận nội dung tố cáo số 358/KL-CTHA ngày 16/5/2013 và Kết luận nội dung tố cáo số 106/KL-CTHA ngày 06/3/2015 của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh T và việc ông C, bà M tố cáo tiếp, Tổng cục Thi hành án dân sự đã có Thông báo số 75/TB-GQKNTC ngày 02/10/2015 thông báo cho ông C, bà M biết các nội dung tố cáo nêu trên đã được giải quyết đúng pháp luật. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 27 Luật Tố cáo năm 2011 (trường hợp việc giải quyết tố cáo của người đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp là đúng pháp luật thì không giải quyết lại, đồng thời thông báo cho người tố cáo về việc không giải quyết lại và yêu cầu họ chấm dứt việc tố cáo) và khoản 3 Điều 7 Thông tư số 06/2013/TT-TTCP ngày 30/9/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết tố cáo (đối với tố cáo tiếp thuộc trường hợp không giải quyết lại được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 27 của Luật Tố cáo thì người giải quyết tố cáo thông báo bằng văn bản cho người tố cáo, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan về việc không thụ lý giải quyết tố cáo tiếp và đề nghị chấm dứt việc tố cáo, việc xem xét, giải quyết tố cáo nếu không có tình tiết mới), Tổng cục Thi hành án dân sự đã ra thông báo cho ông C, bà M, cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan về việc không thụ lý giải quyết tố cáo tiếp và đề nghị ông C, bà M chấm dứt việc tố cáo, việc xem xét, giải quyết tố cáo nếu không có tình tiết mới.
Đối với nội dung tố cáo mới, Tổng cục Thi hành án dân sự đã chuyển đến Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh T để giải quyết theo thẩm quyền. Đồng thời, chỉ đạo giải quyết dứt điểm những nội dung tố cáo mới.
Tuy nhiên, ông C, bà M vẫn tiếp tục gửi đơn tố cáo đến Bộ Tư pháp và nhiều lần trực tiếp đến địa điểm tiếp công dân của Bộ Tư pháp để tố cáo. Giải quyết vụ việc này, hiện nay theo Điều 27 Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự (có hiệu lực kể từ ngày 16/3/2016), thì: “1. Đối với vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng, kéo dài, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo phải tổ chức họp liên ngành trung ương, địa phương để thống nhất phương án giải quyết; tổ chức đối thoại với người khiếu nại, tố cáo; thông báo kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo; 2. Đối với việc khiếu nại, tố cáo đã được giải quyết đúng pháp luật, nếu qua đối thoại, giải thích, vận động, thuyết phục mà người khiếu nại, tố cáo đồng ý với phương án giải quyết thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo ra thông báo chấm dứt khiếu nại, tố cáo. Trường hợp đương sự không đồng ý thì ra thông báo không thụ lý, xem xét, giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo đó, đồng thời, cơ quan ra thông báo sẽ lập hồ sơ trích ngang về nội dung vụ việc và quá trình giải quyết để công khai trên cổng/trang thông tin điện tử của cơ quan và thông báo cho các cơ quan có liên quan ở trung ương và địa phương”.
Đối với vụ việc trên, tố cáo đã được giải quyết đúng pháp luật, thấu tình, đạt lý nhưng công dân vẫn khiếu nại, tố cáo, thì việc thông báo công khai về việc chấm dứt thụ lý xem xét, giải quyết vụ việc là cơ sở để nếu người dân vẫn tiếp tục khiếu nại, tố cáo thì tất cả các cơ quan thuộc hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương sẽ trả lời người khiếu nại, tố cáo một cách nhất quán và cũng là cơ sở để các cơ quan chức năng xử lý những trường hợp lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để gây rối, vi phạm pháp luật.
Kinh nghiệm từ giải quyết một vụ việc tố cáo
Trong thời gian qua, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự được Bộ Tư pháp
Lan Anh