Từ năm 1967 đến đầu năm 1973, với âm mưu mở rộng chiến tranh leo thang phá hoạt miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện của ta từ hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam, cùng với việc huy động lớn lực lượng không quân và hải quân đánh phá các cơ sở kinh tế, chính trị thuộc các tỉnh, thành phố trọng điểm miền Bắc, đế quốc Mỹ đã tiến hành hai chiến dịch lớn (tháng 02/1967 - tháng 10/1968 và tháng 5/1972 - tháng 01/1973) thả hàng chục nghìn quả thủy lôi, bom từ trường phong tỏa hầu hết hệ thống giao thông thủy, bộ miền Bắc, các cửa sông, bến cảng, đường biển, bến phà quan trọng… gây khó khăn cho ta trong việc tiếp nhận hàng hóa viện trở của nước ngoài, làm gián đoạn giao thông thủy, bộ, ngăn chặn sự chi viện của ta cho các chiến trường…
Song với quyết tâm “đánh địch mà đi, mở luồng mà tiến”, Hải quân nhân dân Việt Nam đã phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt, lực lượng đầu tiên, trực tiếp và chủ yếu trong nghiên cứu, tháo gỡ, phát hiện tính năng kỹ chiến thuật của thủy lôi, bom từ trường địch; phối hợp với các lực lượng thiết kế, chế tạo các công cụ rà phá hiệu quả và tổ chức rà phá làm mất hiệu lực hàng nghìn quả thủy lôi, bom từ trường của đế quốc Mỹ, mở tuyến thông luồng thắng lợi, bảo đảm nối liền mạch máu giao thông, phục vụ sản xuất và chi viện cho chiến trường miền Nam. Tính đến ngày 27/6/1973, kết thúc nhiệm vụ, Quân chủng Hải quân cùng với quân dân miền Bắc, trực tiếp là các lực lượng thuộc Bộ Tư lệnh công binh, Viện Kỹ thuật quân sự, Bộ Giao thông vận tải, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội… đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ rà phá thủy lôi, bom từ trường địch thả trên các khu vực sông biển miền Bắc, góp phần đánh bại một phương thức tác chiến rất thâm độc của địch, cùng quân và dân ta đánh thắng hai cuộc chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.
Chiến công chống đế quốc Mỹ phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường là một trong những thành tích, chiến công tiêu biểu của Hải quân nhân dân Việt Nam và quân dân miền Bắc; khẳng định tài thao lược trong lãnh đạo chiến tranh cách mạng của Đảng ta, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng; đó là chiến thắng của bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam - một dân tộc không bao giờ chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù xâm lược nào. Giá trị lịch sử của chiến công trong chống đế quốc Mỹ phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường luôn là thực tiễn sinh động, có ý nghĩa lịch sử to lớn, tính thời sự sâu sắc.
Kỷ niệm 50 năm Chiến công chống đế quốc Mỹ phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường là dịp để chúng ta cùng ôn lại một trong những chiến công tiêu biểu xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta; tự hào, trân trọng và tôn vinh công lao, sự cống hiến, hy sinh của các thế hệ đi trước; nhân lên gia trị và những bài học kinh nghiệm quý báu trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Với chiến công xuất sắc trong rà phá thủy lôi, bom từ trường của địch, Tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 171 và Đội 8 Công binh Hải quân được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Đơn vị anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; 10 tập thể và 30 cá nhân được tặng thưởng Huân chương Quân công và Huân chương Chiến công các hạng; 11 đồng chí được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1, trong đó có đồng chí Nguyễn Bá Phát, Tư lệnh Hải quân và các đồng chí Trương Thế Hùng, Nguyễn Công Tộ, Nguyễn Duy Khoái, Nguyễn Trọng Bích, Nguyễn Doanh Hải, Văn Hải, Đặng Đức Năng, Nguyễn Sĩ Trinh, Lê Văn Dinh, Hoàng Sơn.
1. Hoạt động của Hải quân nhân dân Việt Nam trong chống đế quốc Mỹ phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường (1967 - 1968 và 1972 - 1973)
1.1. Giai đoạn 1967 - 1968
Âm mưu, thủ đoạn và hành động của đế quốc Mỹ
Đầu năm 1965, để cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền và quân đội ngụy quân Sài Gòn, trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh và quân các nước chư hầu của Mỹ vào niềm Nam Việt Nam. Bước sang năm 1967, đế quốc Mỹ mở cuộc phản công chiến lược trên chiến trường miền Nam và ngày càng đẩy mạnh việc đánh phá bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Máy bay, tàu chiến Mỹ đêm ngày đánh phá các mục tiêu trên đất liền một cách điên cuồng, gây nhiều tội ác dã man, tàn bạo đối với đồng bào ta; đồng thời chúng thả thủy lôi, bom từ trường xuống các biến cảng, cửa sông ven biển, các khu tập kết chuyển tải hàng hóa và các bến phà trên sông, biển miền Bắc hòng ngăn chặn, cắt đứt hoàn toàn tuyến vận tải sông, biển của ta chi viện cho chiến trường miền Nam. Chúng thả nhiều đợt, mỗi đợt thực hiện theo một phương thức mới, kết hợp nhiều loại thủy lôi, bom mìn có sự cải tiến và mức độ ngày càng nguy hiểm hơn; những khu vực trọng điểm chúng thả với mật độ dày hơn.
Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt, chủ lực, tiên phong chống đế quốc Mỹ phong tỏa sông, biển miền Bắc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ rà phá thủy lôi, bom từ trường trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1967 - 1968)
Ngay từ đầu, công tác phòng, chống địch phong tỏa sông, biển bằng thủy lôi và bom từ trường đã được chỉ đạo chặt chẽ, chủ động và chuẩn bị rất tích cực, có phân công nhiệm vụ cho các lực lượng hiệp đồng cụ thể, trong đó, Hải quân giữ vai trò là nòng cốt chủ lực, đột phá, đi tiên phong trong cuộc chiến đấu quan trọng này.
Bộ Tư lệnh Hải quân một mặt chỉ đạo tích cực tìm cách tháo gỡ, nghiên cứu thiết kế những thiết bị rà phá chống phong tỏa thủy lôi của địch, mặt khác chỉ đạo lực lượng công binh cùng các lực lượng tàu thuyền của Quân chủng và lực lượng của các quân khu, địa phương dùng những thiết bị rà phá thô sơ như thùng phuy, tấm tôn, tàu thuyền nhỏ lắp bộ khung dây điện từ kéo lướt qua khu vực có thủy lôi, hoặc dùng bộ phá kích thủy lôi nổ… tìm mọi cách để nhanh giải phóng các luồng lạch.
Mặc dù chưa có những thiết bị rà phá hiệu quả cao nhưng cán bộ, chiến sỹ Công binh Hải quân vẫn kiên cường chiến đấu chống phong tỏa của địch; không quản ngày đêm kiên trì, dũng cảm thực hiện những biện pháp thủ công, kéo đi kéo lại các khí tài thô sơ trên từng khúc sông, luồng lạch để rà phá hoặc lặn sâu xuống lòng sông mò tìm, tháo gỡ, áp bộc phá trực tiếp vào thủy lôi để kích nổ.
Ngày 05, 06/7/1967 và ngày 16/8/1967, Quân chủng Hải quân kiêm Quân khu Đông Bắc hai lần tổ chức Hội nghị hiệp đồng chống phong tỏa để thống nhất và đẩy mạnh các biện pháp tổ chức chống địch phong tỏa, tổ chức các trạm quan sát ở ven sông, biển, gấp rút tổ chức các đội tháo gỡ chuyên nghiệp, nghiên cứu phương án mở đường vòng tránh và tận dụng mọi khả năng để nghiên cứu, chế tạo các phương tiện, thiết bị khí tài rà phá thủy lôi.
Việc “bắt sống” (tháo gỡ) thành công những quả thủy lôi MK-50, MK-52 và bom từ trường DTS-36 ngay sau khi địch thả xuống hòng phong tỏa, ngăn chặn các tuyến giao thông thủy, bộ của ta có giá trị vô cùng quan trọng, là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của cuộc chiến đấu chống địch phong tỏa sông, biển miền Bắc của quân và dân ta.
Từ những khám phá, kết luận về thủy lôi và bom từ trường của địch, cán bộ ngành kỹ thuật Hải quân đã phối hợp với các xưởng 46 và 56 của Quân chủng nghiên cứu, thiết kế, chế tạo thành công các phương tiện, thiết bị rà phá thủy lôi như HDL-9 (Hải quân diệt lôi-9), là thiết bị phóng từ được lắp động cơ đẩy, dùng xuồng cao su kéo trên mặt nước để phóng từ kích nổ thủy lôi, bom từ trường. Sau đó đã tiếp tục thiết kế, chế tạo thành công thiết bị rà phá HT-5 (Hải quân từ trường-5) là thiết bị phóng từ có cấu tạo gọn nhẹ, hiệu quả và tiếp đó cải tiến thành thiết bị HT-6 có hiệu suất chiến đấu cao hơn.
Kết quả trong hai năm (1967 - 1968), với vai trò nòng cốt, chủ lực, Quân chủng Hải quân kiêm Quân khu Đông Bắc đã phối hợp với lực lượng của các quân khu, quân binh chủng và địa phương ven biển sử dụng các phương tiện hiện đại kết hợp với thô sơ, rà phá được 8.851 quả thủy lôi và bom từ trường. Khi Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom đánh phá miền Bắc (ngày 31/10/1968) thì 02 ngày sau lực lượng rà phá đã hoàn thành thông luồng để dẫn tàu 300 tấn chở hàng vào các cảng Bến Thủy, sông Gianh, Đồng Hới an toàn, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của đế quốc Mỹ trong cuộc phong tỏa bằng thủy lôi và bom từ trường lần thứ nhất trên sông biển miền Bắc nước ta.
1.2. Giai đoạn 1972 - 1973
Âm mưu, thủ đoạn và hành động mới của đế quốc Mỹ
Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của quân và dân ta ở miền Nam nổ ra đã đẩy quân ngụy Sài Gòm vào tình trạng nguy khống. Nhằm vực đỡ cho quân ngụy, cứu vãn sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam, đế quốc Mỹ đã liều lĩnh tiến hành một chủ trương có ý nghĩa chiến lược vượt ra khỏi khuôn khổ của chiến lược này, thực hiện một phần “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến. Chúng huy động không quân và hải quân với cường độ rất cao chi viện cho quân ngụy phản kích trên chiến trường miền Nam và cho hệ thống cố vấn trở lại hoạt động đến cấp trung đoàn, nắm quyền chỉ huy trực tiếp điều khiển chiến tranh.
Cũng như cuộc phong tỏa lần thứ nhất (1967 - 1968), địch thực hiện nhiều đợt thả thủy lôi, bom từ trường. Đặc biệt, từ ngày 18 đến ngày 29/12/1972, đế quốc Mỹ mở chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ II, dùng máy bay chiến lược B.52 và các loại máy bay chiến thuật hiện đại nhất đánh phá Hà Nội, Hải Phòng, kết hợp với tàu chiến bắn phá ác liệt các vùng ven biển, đồng thời tiếp tục thả thủy lôi, bom từ trường phong tỏa các khu vực cảnh chính Hải Phòng, chia cắt, cô lập các đầu mối giao thông thủy, bộ… làm cho các tuyến vận tải ven biển của ta bị tắc nghẽn, nhiều tuyền đường sông cũng bị ngừng trệ. Sau khi chiến dịch này thất bại, buộc Mỹ phải chấm dứt ném bom trên miền Bắc Việt Nam kể từ ngày 30/12/1972 và trở lại đàm phán ở Pa-ri, nhưng chúng vẫn tiếp tục thả thủy lôi, bom từ trường xuống các vùng sông, biển ở phía Nam Quân khu 4, cho đến ngày 15/01/1973 mới chấm dứt hoàn toàn việc thả thủy lôi.
Phát huy kết quả, kinh nghiệm rà phá thủy lôi, bom từ trường lần thứ nhất (1967 - 1968), Hải quân nhân dân Việt Nam tiếp tục giữ vững vai trò nòng cốt chủ lực, cùng quân dân miền Bắc tích cực, chủ động, đoàn kết, sáng tạo, đánh thắng cuộc phong tỏa sông, biển miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mỹ (1972 - 1973)
Xác định rõ, chống phong tỏa là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng mang tính chiến lược, đột xuất trước mắt, rất cấp bách, rất khó khăn, phức tạp, nên với tinh thần hết sức khẩn trương, tích cực và chủ động, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hải quân đã lãnh đạo tập trung huy động mọi lực lượng cùng tham gia thực hiện.
Ngày 15/5/1972, quả thủy lôi đầu tiên trong cuộc phong tỏa lần thứ hai của đế quốc Mỹ đã được tháo gỡ thành công. Đây là quả thủy lôi MK-52 đã được cải tiến mới rất tinh vi, có sức công phá rất mạnh. Khi được thả xuống nước, có một áp lực lớn tác động đầu nổ sẽ tự động chuyển vào trạng thái chiến đấu. Ngoài nguyên lý nổ do tác động của các trường vật lý, thủy lôi còn được cài đặt chương trình tự nổ hủy nếu sau khoảng 90 ngày kể từ khi được thả không gặp phương tiện tàu thuyền đi qua.
Cùng với việc lãnh đạo tập trung nghiên cứu chế tạo phương tiện rà phá mới, Bộ Tư lệnh Hải quân đã phối hợp với Bộ Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn, Cục Vận tải đường biển, các đơn vị lực lượng vũ trang Hải Phòng lãnh đạo các lực lượng tăng cường củng cố mạng lưới quan sát phát hiện thủy lôi, chủ động phát huy sáng kiến, tìm cách phá gỡ thủy lôi, bom mìn bằng cải tiến những khí tài đã có trong cuộc chống phong tỏa lần thứ nhất của địch. Kết hợp các biện pháp dò tìm, tháo gỡ; thả bộc phá, bom chìm, bắn pháo để kích nổ và phóng từ để rà phá thủy lôi.
Bộ Tư lệnh Hải quân cũng đã huy động cao nhất năng lực quốc phòng của Quân chủng, từ cuối tháng 5 đến tháng 7/1972, ta đã nghiên cứu, thử nghiệm thành công và cho ra đời những chiếc máy phóng từ hiện đại mang ký hiệu 480 và 311 có kết cấu gọn nhẹ có thể lắp trên các phương tiện tàu, xe, ca nô để phá bom từ trường mang đầu nỏ MK42 và chế tạo các khung dây gây biến thiên từ trường lớn dùng tàu tuần tiễu 50 tấn kéo để phá thủy lôi MK-52 của địch. Đồng thời, cán bộ kỹ thuật của Quân chủng cũng đã cải tiến thành công tàu vận tải đổ bộ lắp đặt thiết bị phóng từ mạnh để phá các loại thủy lôi.
Phát hiện ta tập trung lực lượng, phương tiện rà phá, tháo gỡ thủy lôi trên các luồng vận chuyển, đế quốc Mỹ tìm mọi cách để đối phó, gây cho ta thêm những khó khăn, thiệt hại mới.
Do điều kiện khó khăn về vật tư nên Quân chủng Hải quân đã đề nghị Ban chỉ đạo chống phong tỏa của Chính phủ đặt xưởng cơ khí Trạm Giang của Trung Quốc sản xuất giúp 04 ca nô phóng từ, 200 bộ thiết bị rà phá loại 480 và 100 bộ loại 311 theo thiết kế của ta để cung cấp cho các đơn vị, lực lượng làm nhiệm vụ rà phá. Đồng thời cũng đề nghị hải quân nước bạn hỗ trợ giúp đỡ việc rà phá thủy lôi để giải phóng nhanh các luồng lạch, phục vụ cho hoạt động vận chuyển của ta. Nhờ có sự giúp đỡ quốc tế quý báu này, chúng ta đã cung cấp kịp thời các trang bị cho lực lượng rà phá thủy lôi. Từ tháng 8/1972, sát cánh với lực lượng Hải quân ta làm nòng cốt chủ lực còn có một biên đội gồm 09 tàu quét mìn, 06 ca nô phóng từ và một tổ thợ lặn 20 người của Hải quân Trung Quốc giúp sức cùng rà phá, nghiên cứu tháo gỡ thủy lôi. Tháng 9/1972, Liên Xô cũng đưa 40 cố vấn về bom mìn và một tổ thợ lặn 10 người cùng với các thiết bị lặn sang giúp chúng ta nghiên cứu rà phá, tháo gỡ thủy lôi, bom từ trường.
Với tinh thần quyết tâm “đánh địch mà tiến, mở luồng mà đi”, cán bộ, chiến sĩ các đơn vị Hải quân luôn thể hiện ý chí kiên cường, dũng cảm, liên tục bám sát hiện trường rà phá; đã mò vớt, tháo gỡ được nhiều quả thôi, khám phá ra bí mật của chúng và liên tiếp các bãi lôi của địch bị phá hủy.
Bị thiệt hại nặng nề trên cả hai miền Nam - Bắc, ngày 22/10/1972, một lần nữa Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom và bắn phá miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra.
Trước thời cơ mới, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hải quân tiếp tục khẳng định: Rà phá thủy lôi giải phóng luồng lạch đảm bảo giao thông là yêu cầu khẩn trương cấp thiết bậc nhất, có ý nghĩa lớn về chính trị, quân sự, kinh tế.
Từ ngày 18 đến ngày 29/12/1972, Mỹ mở chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ II, một cuộc tập kích đường không chiến lược quy mô lớn nhất vào miền Bắc nước ta, huy động một số lượng lớn máy bay chiến lược B52 và máy bay chiến thuật hiện đại F111, tiếp tục thả hàng loạt thủy lôi. Song cuộc tập kích gây biết bao tội ác này đã bị quân, dân ta đập tan, làm nên chiến thắng lịch sử “Điện Biên Phủ trên không” vang dội. Tuy nhiên, đến ngày 15/01/1973, chúng mới chấm dứt việc thả thủy lôi ở khu vực sông, biển phía Nam Quân khu 4.
Ngay sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết (ngày 27/01/1973), Quân chủng Trung ương và Bộ Quốc phòng giao cho Quân chủng Hải quân nhiệm vụ cấp bách là lập đề án, tổ chức lực lượng rà phá thủy lôi, bom từ trường của địch thả trong chiến tranh, bảo đảm an toàn hệ thống giao thông thủy để phục vụ công cuộc khôi phục, xây dựng kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và củng cố quốc phòng; đồng thời giám sát mọi hoạt động của lực lượng hải quân Mỹ vào rà phá thủy lôi theo quy định của Hiệp định Pa-ri.
Đến tháng 7/1973, Quân chủng Hải quân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ làm nòng cốt chủ lực, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng khác rà quét, giải quyết hậu quả thủy lôi địch, nhanh chóng giải phóng luồng lạch, bảo đảm giao thông đường thủy kịp thời, an toàn, thông suốt.
Với hơn 400 ngày đêm chiến đấu liên tục và vô cùng căng thẳng, quyết liệt, các tàu của Quân chủng đã hành trình hơn 13.000 hải lý trên các bãi thủy lôi của địch, đoàn kết, hiệp đồng chặt chẽ, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, cùng với các lực lượng của quân dân ta phá nổ 4.495 quả thủy và bom từ trường của địch (riêng Hải quân phá hủy 1.151 quả).
2. Ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm rút ra từ chiến công chống đế quốc Mỹ phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường
2.1. Ý nghĩa lịch sử của chiến công
Chiến công chống đế quốc mỹ phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường là một trong những chiến công tiêu biểu của Hải quân nhân dân Việt Nam và quân dân miền Bắc. Đó là chiến thắng của tư tưởng dám đánh, quyết đánh, biết đánh và quyết thắng; là chiến thắng của trí thông minh, lòng quả cảm đã sáng tạo ra nhiều cách rà phá, tháo gỡ để làm vô hiệu hóa thủy lôi và bom từ trường của địch. Đó là chiến thắng của sự kết hợp giữa kỹ thuật thô sơ và hiện đại với phát huy trí tuệ, ý chí, sức sáng tạo của con người, sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng trong và ngoài quân đội, trong đó Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt chủ lực, tiên phong.
Đánh bại cuộc phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi, bom từ trường của đế quốc Mỹ có ý nghĩa to lớn cả về quân sự và chính trị, đặc biệt là về khoa học công nghệ quân sự trên chiến trường sông, biển. Thắng lợi đó góp phần khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam - một dân tộc đất không rộng, người không đông nhưng không bao giờ chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù xâm lược nào.
Thắng lợi đó khẳng định tài thao lược trong lãnh đạo chiến tranh cách mạng; đường lối chiến tranh nhân dân và sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự chỉ đạo kịp thời đúng đắn trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hải quân; là thắng lợi của nghệ thuật quân sự nói chung và nghệ thuật quân sự Hải quân nói riêng, đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ và nhân dân, của các ban, ngành trung ương và địa phương trên hướng biển, tạo nên sức mạnh của thế trận chiến tranh nhân dân, nền quốc phòng toàn dân trên chiến trường sông, biển, chống lại cuộc phong tỏa hết sức hiểm độc của kẻ thù.
Giá trị lịch sử của chiến công trong chống phong tỏa bằng thủy lôi và bom từ trường của đế quốc Mỹ trên sông, biển miền Bắc luôn là thực tiễn sinh động, có ý nghhĩa lịch sử to lớn, tính thời sự sâu sắc. Đó cũng là cơ sở lý luận và thực tiễn quý báu để Hải quân nhân dân Việt Nam tiếp tục nghiên cứu vận dụng, bổ sung hoàn thiện những cách đánh mới phù hợp, nhằm đối phó có hiệu quả với âm mưu phong tỏa đường biển của địch nếu có xảy ra trong tương lai và góp phần không ngừng phát triển lý luận quân sự hải quân.
Hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chống địch phong tỏa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hải quân nhân dân Việt Nam tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng là lực lượng nòng cốt trên hướng chiến lược quan trọng là biển, đảo. Ngày nay, kế tục truyền thống anh hùng, bộ đội hải quân đã và đang thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ làm nòng cốt trong quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.
2.2. Bài học kinh nghiệm
Chiến công chống đế quốc Mỹ phong tỏa bằng thủy lôi và bom từ trường trên sông, biển miền Bắc những năm 1967 - 1968 và 1972 - 1973 là biểu hiện sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đã để lại cho chúng ta nhiều bài học quý báu, góp phần làm phong phú thêm nghệ thuật quân sự Hải quân và nghệ thuật quân sự Việt Nam, khẳng định một đội quân cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh, đoàn kết một lòng, cùng toàn dân, toàn quân thực hiện cuộc chiến tranh nhân dân thì khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Những bài học đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là:
Thứ nhất, quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo đường lối quân sự của Đảng và nhiệm vụ chống địch phong tỏa sông biển, tích cực chủ động đề ra chủ trương, biện pháp chống phong tỏa quyết đoán, kịp thời.
Thứ hai, nắm vững âm mưu, thủ đoạn, quy luật hoạt động và vũ khí mới của địch; phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết hiệp đồng, tích cực, chủ động sáng tạo, mưu trí, dũng cảm, kiên cường, khắc phục khó khăn, không sợ hy sinh, gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ trong chống phong tỏa.
Thứ ba, phát huy sức mạnh tổng hợp của thế trận chiến tranh nhân dân, nền quốc phòng toàn dân trên chiến trường sông, biển; xây dựng các thành phần lực lượng có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí quyết chiến quyết thắng; tổ chức hiệp đồng chặt chẽ, chỉ huy thống nhất giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, lấy lực lượng hải quân làm nòng cốt - một trong những yếu tố quyết định thúc đẩy thắng lợi trong chống phong tỏa.
Thứ tư, nắm vững khoa học kỹ thuật, kiên quyết khắc phục khó khăn, đánh địch bằng mọi thứ vũ khí hiện có; kiên trì giữ vững bí mật, biết nắm và tranh thủ thời cơ để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ; thường xuyên kết hợp nghiên cứu vận dụng phù hợp khoa học quân sự với khoa học kỹ thuật để có hiệu quả cao nhất trong chống phong tỏa.
3. Phát huy truyền thống, kinh nghiệm trong chống đế quốc Mỹ phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường, xây dựng Quân chủng Hải quân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong tình hình mới
Chiến công chống đế quốc Mỹ phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi, bom từ trường để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá. Là cơ sở để thế hệ cán bộ, chiến sĩ Hải quân Việt Nam hôm nay nghiên cứu, vận dụng sáng tạo trong hoàn cảnh mới, sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược và phương thức tác chiến của chúng từ hướng biển; quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc; xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Chúng ta cần tập trung làm tốt các nội dung sau:
Một là, chủ động nắm chắc diễn biến tình hình trên biển, nâng cao khả năng dự báo, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về chủ tưởng, đối sách chiến lược, biện pháp trong quản lý nhà nước về biển, đảo, xử lý các vấn đề trên biển và công tác đối ngoại quốc phòng trên hướng biển. Chuẩn bị toàn diện về tư tưởng, lực lượng, phương tiện, vũ khí, trang bị, cơ sở vật chất; xử lý kịp thời, không để bị bất ngờ; giữ vững mối quan hệ hữu nghị với các nước, nhất là các nước trong khu vực. Đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại quân sự, nhất là với Hải quân các nước truyền thống, các nước láng giềng và trong khu vực; chủ động hợp tác tuần tra chung với các nước trong khu vực, xây dựng vùng biển hòa bình, ổn định, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Hai là, tập trung xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao sức mạnh tổng hợp của Quân chủng. Tiếp tục bồi dưỡng nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội cho cán bộ, chiến sĩ, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, “phi chính trị hóa” quân đội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch. Trong bất cứ hoàn cảnh nào Hải quân nhân dân Việt Nam cũng luôn tỏ rõ lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; phải làm hết sức mình, dù có phải hy sinh tính mạng để giữ vững chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, khu vực phòng thủ và thế trận chiến tranh nhân dân trên biển vững chắc, trong đó Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt. Chủ động nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung các kế hoạch, đề xuất phương án, cách đánh phù hợp với sự phát triển của vũ khí trang bị kỹ thuật và đối tượng tác chiến. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, thông tin trong quản lý, chỉ huy, điều hành tác chiến. Chủ động hiệp đồng chặt chẽ giữa Hải quân với cấp ủy, chính quyền và lực lượng vũ trang địa phương, các lực lượng quản lý, bảo vệ khai thác tài nguyên trên biển, huy động lực lượng, phương tiện đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Xây dựng Quân chủng Hải quân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại đủ các thành phần lực lượng; xây dựng các lực lượng trong Quân chủng có thể tác chiến độc lập, liên tục dài ngày ở vùng biển gần cũng như vùng biển xa thắng lợi.
Bốn là, đổi mới nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, nâng cao khả năng quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; huấn luyện theo đúng phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát thực tế chiến trường; huấn luyện hiệp đồng, chỉ thị mục tiêu, sát phương án; huấn luyện làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật, phương pháp thả và rà phá thủy lôi, bom mìn, chống chìm, chống cháy, chống đâm va, mắc cạn tàu, thuyền, cứu hộ, cứu nạn và phòng ngừa tai nạn…; huấn luyện kỹ thuật cơ bản, vững chắc về chiến thuật; huấn luyện xử lý các tình huống, trong điều kiện thời tiết phức tạp; chủ động phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang và các địa phương xử lý kịp thời, chính xác mọi tình huống, không để bị động, bất ngờ.
Năm là, tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng của Quân chủng Hải quân; truyền thống của đơn vị và những bài học quý báu trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, giải phóng dân tộc, trong thời kỳ mới, nhất là những kinh nghiệm xương máu trong rà phá thủy lôi, bom từ trường của đế quốc Mỹ phong tỏa sông, biển miền Bắc; nghiên cứu các bài học lịch sử được đúc rút ra từ kinh nghiệm trong chiến tranh để chuẩn bị thế trận chiến tranh nhân dân trên biển, kế thừa, phát huy hơn nữa nghệ thuật quân sự và truyền thống đánh giặc của dân tộc trong điều kiện mới; xây dựng phương án, cách đánh độc đáo có hiệu quả nhất phù hợp với đối tượng tác chiến và điều kiện cụ thể của Quân chủng Hải quân, nhằm xây dựng củng cố kho tàng nghệ thuật quân sự Hải quân nhân dân Việt Nam trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Sáu là, ra sức phấn đấu học tập, rèn luyện, công tác tốt; nêu cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, cần, kiệm để xây dựng đơn vị. Làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có; tiếp nhận và làm chủ vũ khí, trang bị mới hiện đại; chủ động nắm bắt các thành tựu khoa học - công nghệ mới để nghiên cứu cải tiến, sáng chế, ứng dụng; thực hiện tốt cuộc vận động “Quản lý, khai thác vũ khí trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”.
Uyên Nhi
Ảnh: internet
(Bài viết sử dụng tài liệu Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 50 năm Chiến công chống đế quốc Mỹ phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường (27/6/1973 - 27/6/2023) của Cục Chính trị Hải quân).