Thực tế cho thấy, sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo nhằm mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Mục tiêu trên có thực hiện được hay không phụ thuộc rất lớn vào việc giải quyết đúng đắn quan hệ kinh tế, trong đó lợi ích kinh tế của người lao động là một nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với quá trình sản xuất của cải vật chất xã hội. Lợi ích của người lao động phải được sự quan tâm thích đáng, phải trở thành động lực để phát triển kinh tế - xã hội. Tỉnh Phú Thọ muốn phát triển kinh tế, ổn định xã hội, ngoài việc giải quyết nhiều vấn đề khác thì vấn đề đảm bảo lợi ích kinh tế cho người lao động cần phải được quan tâm thỏa đáng hơn nữa.
Tuy nhiên, hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần trên địa bàn tỉnh Phú Thọ vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết, đặc biệt là vấn đề về lợi ích kinh tế của người lao động nhiều lúc chưa được chăm lo đúng mức. Thậm chí có doanh nghiệp sau cổ phần hóa người lao động bị mất việc làm mà không được hỗ trợ thoả đáng, nhiều người lao động không được đóng bảo hiểm xã hội gây ra nhiều bức xúc. Đây là vấn đề cần phải được nghiên cứu và đưa ra những giải pháp phù hợp.
1. Thực trạng lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Ngay từ khi có Chỉ thị số 20/1998/CT-TTg ngày 21/4/1998 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh, sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước và nhất là sau Nghị quyết số 05/2001/NQ-TW ngày 24/9/2001 của Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước, Tỉnh ủy Phú Thọ đã chỉ đạo triển khai học tập, quán triệt phổ biến rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của Phú Thọ được bắt đầu từ những năm 1998 nhưng đến năm 2001 mới được đẩy mạnh. Nếu tính tại thời điểm 01/01/2001 đến nay, toàn tỉnh Phú Thọ có tổng số có 54 doanh nghiệp cần được cổ phần hóa. Qua hơn 10 năm thực hiện, tỉnh Phú Thọ đã cơ bản hoàn thành sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước theo đúng lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và Nghị quyết của Ban Thường vụ đề ra. Từ năm 1998 đến nay, tỉnh Phú thọ đã tiến hành sắp xếp lại 67 doanh nghiệp nhà nước thành: 01 công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, 55 công ty cổ phần, thành lập mới 01 công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, thực hiện phá sản 06 doanh nghiệp nhà nước. Hiện còn một doanh nghiệp nhà nước cuối cùng đang được chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên.
1.1. Về tình hình người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Phú Thọ
Lực lượng lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa của tỉnh Phú Thọ chủ yếu là lao động ở địa phương do nguồn nhân lực của tỉnh khá dồi dào. Theo số liệu điều tra dân số chính thức 01/4/2009 toàn tỉnh hiện có 1.313.926 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động 727.500 người (chiếm gần 60% dân số). Lực lượng lao động trẻ chiếm 65%, chi phí nhân công rẻ, bằng 65% so với Hà Nội và 40% so với Thành phố Hồ Chí Minh. Hầu hết lao động có trình độ học vấn, được đào tạo có tay nghề, có đức tính cần cù, siêng năng, thông minh, có khả năng tiếp thu và sử dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại. Chương trình giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được triển khai tích cực. Tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh năm 2005 đạt trên 33,5%, năm 2010 đạt 40% (trong đó qua đào tạo nghề đạt 26%), phấn đấu đến năm 2020 tỷ lệ này đạt 70 - 75%. Từ năm 2010 - 2015 tỉnh đã giải quyết việc làm cho hơn 90 nghìn lao động, bình quân tăng 9,5%/năm. Đây là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
1.2. Tình hình thực hiện lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Một là, thu nhập bằng tiền của người lao động: Theo phân tích tại Báo cáo khảo sát tình hình đời sống việc làm của người lao động trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh của Liên đoàn Lao động tỉnh Phú Thọ vào thời điểm tháng 7/2016 cho thấy: Các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa thuộc ngành xây dựng, tình hình sản xuất kinh doanh khối xây lắp gặp rất nhiều khó khăn do không thanh toán được khối lượng hoàn thành (chủ yếu là nợ đọng vốn ngân sách) tình trạng thiếu vốn sản xuất, vay ngân hàng rất khó khăn. Đặc biệt các doanh nghiệp cổ phần hoá xong một số công trình dở dang phải đình lại do thiếu vốn, giá xăng dầu và một số vật tư tăng… do vậy việc thanh toán lương cho cán bộ công nhân chậm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế không nộp được cho người lao động.
Thu nhập từ cổ tức cổ phần: Theo tổng hợp của Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh Phú Thọ trong các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá của tỉnh thì tỷ lệ người lao động trong doanh nghiệp mua cổ phiếu chiếm 12% vốn điều lệ. Các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh khi tiến hành cổ phần hóa đã thực hiện đúng chính sách của Nhà nước về bán cổ phần ưu đãi cho người lao động.
Thu nhập từ phúc lợi tập thể: Hầu hết các doanh nghiệp đã quan tâm nhiều hơn đến người lao động thông qua các hoạt động như trợ cấp khó khăn, hỗ trợ tiền gửi trẻ, tặng quà nhân các ngày lễ tết... Hàng năm, các doanh nghiệp này đã có nhiều hình thức thăm hỏi, hiếu hỉ, tổ chức sinh nhật, tham quan… cho người lao động, cho con em và người thân trong gia đình họ.
Hai là, việc làm, nhà ở và các lợi ích vật chất khác của người lao động: Qua khảo sát qua các năm, từ 4.546 người năm 2011 lên 7.153 người năm 2016. Như vậy đã có trên 2.600 lao động được giải quyết việc làm, tập trung ở các doanh nghiệp dệt may, da giày. Tuy nhiên, có một số doanh nghiệp sau cổ phần hóa do sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, không phát triển được sản xuất nên phải cho lao động nghỉ luân phiên. Một số doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa, người lao động nếu không có điều kiện mua nhà, hoặc phải đi thuê nhà trọ thì hàng tháng đều được công ty trợ cấp một khoảng tiền gọi là tiền hỗ trợ nhà ở hoặc tiền “lưu trú”.
Vấn đề chất lượng nhà trọ hiện nay vẫn bị thả nổi, tình hình vệ sinh môi trường và an ninh trật tự xã hội tại những khu nhà trọ nhiều nơi không được đảm bảo. Về phương tiện đi lại cho người lao động, trên 90% các doanh nghiệp này không có phương tiện đưa đón công nhân nên hầu hết người lao động đều phải tự đi làm bằng phương tiện cá nhân. Doanh nghiệp chỉ hỗ trợ một phần tiền đi lại hàng tháng cho người lao động gọi là tiền “xăng xe” hoặc “hao mòn phương tiện đi lại” nhằm giúp người lao động di chuyển từ nhà trọ đến nơi làm việc. Bên cạnh sự hỗ trợ về phương tiện đi lại, các doanh nghiệp còn hỗ trợ tiền ăn ca cho người lao động.
Ba là, điều kiện và môi trường làm việc của người lao động: So với các doanh nghiệp tư nhân, đa số các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa có điều kiện an toàn vệ sinh lao động ở mức tương đối tốt. Nhiều doanh nghiệp đã quan tâm đầu tư nâng cấp chất lượng nhà xưởng, cải tạo hệ thống thông gió, làm mát, đảm bảo ánh sáng, giảm thiểu nồng đọ bụi, độ rung, tiếng ồn… theo hướng tích cực, có lợi cho người lao động.
1.3. Về quyền và lợi ích kinh tế của người lao động trong tuyển dụng, ký kết hợp đồng lao động, đào tạo tay nghề và chế độ làm việc, nghỉ ngơi
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa của tỉnh đều có nội quy lao động hoặc quy chế hoạt động; 61/67 doanh nghiệp xây dựng được Thỏa ước lao động tập thể và đã đăng ký với cơ quan quản lý lao động ở địa phương. Tuy nhiên, ở các doanh nghiệp này thỏa ước lao động tập thể chủ yếu là sao chép lại luật, chưa cụ thể hóa được nhiều hành vi vi phạm và các hình thức xử lý kỷ luật, do đó khi xảy ra vi phạm còn lúng túng trong việc lựa chọn hình thức xử lý. Các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa của tỉnh đều thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động theo các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội (được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007).
1.4. Vai trò của các tổ chức chính trị và chính trị - xã hội trong việc bảo vệ lợi ích người lao động
Hiện nay, trong tất cả các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở tỉnh Phú Thọ đều có đầy đủ các tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh hoạt động. Các tổ chức này hoạt động theo điều lệ nhằm mục tiêu chăm lo đời sống, việc làm, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động.
2. Những tồn tại về việc thực hiện lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Thứ nhất, một số doanh nghiệp vẫn áp dụng hình thức trả lương theo thời gian đối với cả những công việc có điều kiện áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm. Điều này làm cho quá trình phân phối thu nhập mang nặng tính chất bình quân chủ nghĩa, làm hạn chế tác dụng tích cực của nguyên tắc phân phối theo lao động, chưa tạo ra được động lực thúc đẩy người lao động tích cực nâng cao tay nghề, cải tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thứ hai, hiện nay tiền lương của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa còn thấp chỉ đáp ứng 60% nhu cầu cuộc sống của họ. Thực tế cho thấy, việc trả lương cho người lao động ở các doanh nghiệp chưa phản ánh đúng với giá trị sức lao động của họ. Tiền lương chưa đủ để tái sản xuất sức lao động, chưa đủ đảm bảo các điều kiện sống tối thiểu về nhà ở và nuôi dạy con cái… không tạo ra sự nhiệt tình, tâm huyết của người lao động trong quá trình sản xuất.
Thứ ba, mặc dù một bộ phận người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ngoài tiền lương nhận được hàng tháng họ còn nhận được lợi tức cổ phiếu do sở hữu một phần tài sản của doanh nghiệp, thông qua việc mua cổ phiếu của doanh nghiệp cổ phần, nhưng bộ phận người lao động này không nhiều. Một số được ưu tiên mua cổ phiếu nhưng lại không đủ khả năng tài chính để mua nên phải bán cho người khác.
Thứ tư, có thể nói điều kiện làm việc, bảo hộ lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa của tỉnh đã có nhiều tiến bộ hơn so với các doanh nghiệp tư nhân, nhưng hiện nay vấn đề này vẫn còn nhiều thiếu sót như: Ở một số doanh nghiệp vẫn còn một bộ phận người lao động làm việc trong điều kiện môi trường lao động không được đảm bảo an toàn, có nhiều yếu tố độc hại, chưa được trang bị đủ các phương tiện bảo hộ lao động.
Thứ năm, về vấn đề nhà ở cho người lao động. Mặc dù việc chăm lo giải quyết nhà ở cho người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc. Số lượng doanh nghiệp giải quyết nhà ở cho người lao động còn quá ít, điều kiện nơi ở còn nhiều hạn chế.
Thứ sáu, công tác quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp thiếu chặt chẽ; chưa kịp thời kiểm tra, phát hiện, xử lý các sai phạm trong việc chấp hành quy định của pháp luật, nhất là việc thực hiện Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật Bảo hiểm xã hội.
Thứ bảy, vai trò tổ chức cơ sơ Đảng và các đoàn thể quần chúng trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa có lúc còn mờ nhạt, chưa làm tốt chức năng kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật lao động của các doanh nghiệp.
3. Một số kiến nghị, giải pháp
Từ những hạn chế trong việc thực hiện lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở tỉnh Phú Thọ cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao chất lượng khâu tổ chức thực hiện các chính sách của Nhà nước, tổ chức thực hiện chính sách tiền lương, tiền thưởng
Tiền lương, tiền công là nguồn thu nhập chủ yếu, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy người lao động trong các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở Phú Thọ nói riêng làm việc với tinh thần hăng say, sáng tạo. Vì vậy, Phú Thọ cần có giải pháp hữu hiệu đảm bảo khâu tổ chức thực hiện các quy định của Nhà nước về lương thực tế, đảm bảo đời sống cho người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa của tỉnh nhà. Thực hiện tốt chế độ hợp đồng lao động và thoả ước lao động tập thể trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở Phú Thọ. Hợp đồng lao động được ký kết giữa người lao động và người sử dụng lao động theo quy định của Luật Lao động, người lao động cần phải hiểu biết quy định của Bộ luậtLlao động về vấn đề này và nắm được tình hình lao động của doanh nghiệp thông qua tổ chức công đoàn. Khi thực hiện hợp đồng cần tăng cường sự giám sát của tổ chức công đoàn, của cơ quan quản lý nhà nước tại Phú Thọ. Cải tiến cách thức thu chi bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Hai là, tổ chức thực hiện hiệu quả việc đào tạo và đào tạo lại cho người lao động
Để công tác đào tạo có hiệu quả và đúng mục tiêu, trước hết Phú Thọ cũng phải nắm bắt được những công nghệ đang và sẽ được áp dụng vào sản xuất ở các doanh nghiệp trong tỉnh. Trên cơ sở đó, xây dựng chương trình và nội dung đào tạo cho người lao động ở từng ngành một cách phù hợp, đón bắt và phục vụ kịp thời nhu cầu về lao động của các doanh nghiệp của địa phương. Cần phải có sự kết hợp tốt với doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp lớn. Những phản hồi của doanh nghiệp về chất lượng đào tạo, nhu cầu làm việc, yêu cầu về kỹ thuật và các phẩm chất mong muốn đối với người lao động là những thông tin cần thiết để xác lập kế hoạch đào tạo theo từng ngành, từng khu vực.
Bà là, thực hiện sáng tạo chính sách về nhà ở cho công nhân
Việc phát triển nhà ở cho người lao động là nhiệm vụ rất quan trọng, là một trong những chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 của Phú Thọ. Phải coi đây là vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế, nâng cao đời sống kinh tế, thu nhập cho nhân dân. Do vậy, trong thời gian tới, Phú Thọ cần có biện pháp sáng tạo khuyến khích các đơn vị xây dựng nhà ở cho người lao động như: Tạo điều kiện về mặt bằng, về đất đai, về thuế… nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong xây dựng nhà ở cho người lao động.
Bốn là, nâng cao trách nhiệm của Hội đồng quản trị và Giám đốc doanh nghiệp trong việc đảm bảo lợi ích kinh tế cho người lao động
Để phát huy được tính ưu việt của doanh nghiệp cổ phần đối với đảm bảo lợi ích của người lao động, việc quy định rõ trách nhiệm của giám đốc về đảm bảo mức thu nhập, điều kiện và thời gian lao động; hàng năm phải giành một khoản kinh phí nhất định trích từ lợi nhuận của doanh nghiệp để cải thiện điều kiện nhà ở cho công nhân; đảm bảo việc khám sức khoẻ định kỳ để xác định bệnh nghề nghiệp cho công nhân hầm lò, công nhân làm những công việc nặng nhọc khác… phải được Hội đồng quản trị của các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa đưa vào chương trình nghị sự của Đại hội cổ đông và trở thành nghị quyết để thực hiện dưới sự giám sát kiểm tra thường xuyên của Hội đồng quản trị. Ðổi mới mô hình quản trị, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cần đổi mới phương thức quản trị doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa của Phú Thọ để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sau cổ phần hoá hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, được điều hành bởi Hội đồng quản trị có sự tham gia của các thành phần kinh tế, tạo sự công khai, minh bạch hơn, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên phần vốn góp của mình. Việc kiểm tra, giám sát của các cổ đông nhất là cổ đông là nhà đầu tư chiến lược và người lao động trong doanh nghiệp đã có ý nghĩa thiết thực trong đổi mới về phương thức quản lý, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Việc đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở Phú Thọ phải nhằm giải quyết các yêu cầu sau đây:
- Chủ động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề, hiểu biết về luật pháp, kỷ luật lao động, ý thức làm chủ cho người lao động
Các nhà kinh tế học cho rằng, việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chính là hoạt động đầu tư thích đáng nhất trong bối cảnh của sự phát triển kinh tế hiện nay, để sinh lời nhiều nhất. Như vậy, hình thức bồi dưỡng, đào tạo chính là từng bước giúp người lao động giản đơn thoát khỏi sự lo sợ thiếu lành nghề, thoát khỏi cuộc sống đầy bấp bênh do thu nhập thấp để bước sang lĩnh vực lao động phức tạp để có thể có nhiều sự lựa chọn với việc làm tốt hơn, phù hợp hơn… do có thu nhập cao. Cho nên không thể cải thiện đời sống người lao động, nâng cao mức sống của người dân… nếu như trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật của họ chưa được cải thiện. Suy cho cùng thì một quốc gia không thể thoát khỏi hiểm hoạ của đói nghèo, lạc hậu, bệnh tật… nếu quốc gia đó còn chìm trong sự yếu kém về mặt văn hoá giáo dục.
- Nâng cao vai trò của tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá ở Phú Thọ trong việc tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát thực thi luật pháp, chính sách có liên quan đến lợi ích kinh tế của người lao động.
Muốn bảo đảm chăm lo lợi ích kinh tế và không ngừng nâng cao đời sống người lao động, cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị của doanh nghiệp, thông qua quy chế phối hợp công tác không những khẳng định vị trí của công đoàn, đoàn thanh niên trong hoạt động của doanh nghiệp mà còn thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh và xây dựng thương hiệu doanh nghiệp.
- Ðối với người lao động trong các doanh nghiệp sau cổ phần hóa ở Phú Thọ
Ðể thực hiện được lợi ích của mình, bản thân người lao động cũng phải nỗ lực để có thể tham gia vào quá trình tạo nhiều lợi nhuận và phân phối lợi ích cũng như biết cách tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình trong các doanh nghiệp sau cổ phần hóa ở Phú Thọ.
Muốn vậy, người lao động một mặt tích cực tham gia lao động, còn cần phải nỗ lực vươn lên khắc phục khó khăn để nâng cao trình độ hiểu biết về tổ chức thực hiện quá trình lao động sản xuất cũng như trình độ kỹ thuật, thao tác lao động, tạo năng suất lao động cao, đưa lại hiệu quả cao trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy, lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp thúc đẩy mọi hoạt động của con người, vì vậy, phải quan tâm đến việc giải quyết mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh tế trong xã hội. Để nền kinh tế phát triển lành mạnh, bền vững thì các mối quan hệ lợi ích kinh tế đó phải được giải quyết một cách hài hòa trên quan điểm tiến bộ, phù hợp với quy luật kinh tế và xu hướng phát triển của xã hội.
Phó Trưởng Khoa Lý luận Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ