1. Đặt vấn đề
Luật Đất đai năm 2024 được Quốc hội khóa XV thông qua ngày 18/01/2024 tại kỳ họp bất thường lần thứ 05 với nhiều điểm mới đánh dấu sự đổi mới về chính sách, pháp luật đất đai đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước[1]. Hiện nay, Bộ Tư pháp tiếp tục đồng hành với các cơ quan liên quan trong việc ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2024 và nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành nhằm góp phần đưa Luật Đất đai năm 2024 đi vào cuộc sống. Bài viết sẽ tập trung phân tích, đánh giá về 04 nội dung được sửa đổi, bổ sung, quy định mới trong Luật Đất đai năm 2024 là: (i) Quy định về hộ gia đình sử dụng đất; (ii) Quy định về thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; (iii) Quy định về hình thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và (iv) Quy định về giải quyết tranh chấp đất đai. Qua đó, đưa ra một số gợi mở nhằm cụ thể hóa, chi tiết trong các văn bản hướng dẫn thi hành và nâng cao hiệu quả triển khai Luật Đất đai năm 2024 trong thời gian tới.
2. Một số điểm mới của Luật Đất đai năm 2024 và hướng hoàn thiện văn bản hướng dẫn thi hành
2.1. Về hộ gia đình sử dụng đất
Một trong những thay đổi lớn, có tác động mạnh đến giao dịch về quyền sử dụng đất trên thị trường, đó là Luật Đất đai năm 2024 không còn ghi nhận chủ thể sử dụng đất là hộ gia đình. Theo Luật Đất đai năm 2024, các chủ thể sử dụng đất là hộ gia đình đã được xác lập quyền sử dụng đất từ trước khi có hiệu lực thi hành Luật Đất đai năm 2024 thì vẫn được bảo đảm quyền sử dụng đất, song kể từ ngày 01/01/2025, quyền sử dụng đất chỉ được xác lập cho các chủ thể là tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đây là điểm mới nổi bật và mang tính bước ngoặt mà việc thực thi trên thực tế được dự báo sẽ có nhiều biến động phức tạp[2]. Ví dụ: Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Cụ thể trường hợp những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng có quyền sử dụng đất chung do nhận chuyển quyền sau ngày Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực thi hành thì quyền sử dụng đất là tài sản chung của nhiều cá nhân thay vì của hộ gia đình như Luật Đất đai năm 2013. Vậy khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì việc ghi thông tin về người sử dụng sẽ ghi như thế nào, sẽ cấp 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trên đó ghi tên tất cả những cá nhân có quyền sử dụng đất chung hay mỗi cá nhân có quyền sử dụng đất chung sẽ được cấp một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất? Hoặc nhiều trường hợp vợ chồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất là tài sản chung nhưng không thoả mãn điều kiện công nhận là hộ gia đình sử dụng đất vì hai người không đáp ứng điều kiện “đang sống chung tại thời điểm nhận chuyển quyền sử dụng đất”. Vậy quy định “đang sống chung tại thời điểm nhận chuyển quyền sử dụng đất” được xác định như thế nào cần được quy định cụ thể. Do vậy, để bảo đảm phù hợp với thực tiễn khi triển khai quy định trên, trong các văn bản hướng dẫn thi hành cần quy định rõ các vấn đề sau:
Một là, hướng dẫn cụ thể việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Theo tác giả, trường hợp những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng có quyền sử dụng đất chung do nhận chuyển quyền sử dụng đất sau ngày Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực thi hành thì quyền sử dụng đất là tài sản chung của nhiều cá nhân thì khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất sẽ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho nhóm người sử dụng đất, cụ thể mỗi thành viên gia đình sẽ được cấp một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, hình thức sử dụng trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ghi rõ là sử dụng với những ai.
Hai là, xác định điều kiện đang sống chung là thành viên của hộ gia đình sử dụng đất. Đối với hộ gia đình sử dụng đất trước ngày Luật Đất đai năm 2014 có hiệu lực thi hành, để xác định điều kiện là thành viên của hộ gia đình sử dụng đất cần phải quy định rõ thế nào là “đang sống chung tại thời điểm nhận chuyển quyền sử dụng đất”.
2.2. Về thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng
Các trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng được quy định tại Điều 79 Luật Đất đai năm 2024 có có xu hướng mở rộng so với Luật Đất đai năm 2013, cụ thể: (i) Khoản 31 Điều 79 Luật Đất đai năm 2024 quy định tất cả các dự án do Thủ tướng chấp thuận, quyết định chủ trương đầu tư đều thuộc diện thu hồi đất; (ii) Đối vối dự án thuộc lĩnh vực giáo dục, y tế, Nhà nước thu hồi đất các dự án này không phân biệt công tư đều thuộc trường hợp thu hồi đất; (iii) Quy định cụ thể hơn theo hướng liệt kê từng trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội.
Mặc dù, những điểm mới nêu trên sẽ có những tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội nhưng cũng có thể phát sinh một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình ban hành văn bản quy định chi tiết và áp dụng trong thực tiễn như việc mở rộng trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội có thể dẫn đến tình trạng thu hồi đất tràn lan, xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của người sử dụng đất, gây mất ổn định chính trị - xã hội, việc mở rộng các trường hợp thu hồi đất có thể dẫn đến tình trạng người dân khiếu nại tập thể, có hành vi không phù hợp khi thu hồi đất, giải phóng mặt bằng có thể sẽ tái diễn. Cùng với đó, việc quy định các trường hợp thu hồi đất theo hướng liệt kê từng trường hợp cụ thể có khả năng luật không dự liệu được hết trường hợp phát sinh trên thực tế, đến khi có sự việc phát sinh thì người thực thi lại lúng túng vì không có quy định cũng như việc vận dụng quy định để giải quyết ở mỗi địa phương lại khác nhau... Do vậy, để khắc phục tình trạng trên, khi ban hành văn bản hướng dẫn cần quy định rõ vấn đề sau:
Một là, các văn bản hướng dẫn cần quy định chi tiết, làm rõ các khái niệm, thuật ngữ có liên quan đến các trường hợp thu hồi đất.
Hai là, xây dựng văn bản hướng dẫn về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải có quy định cụ thể; bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người sử dụng đất, như về điều kiện được bồi thường về đất, về tài sản có trên đất, giá đất tính tiền bồi thường về đất.
2.3. Về hình thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
So với Luật Đất đai năm 2013, hình thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được quy định ở Luật Đất đai năm 2024 có những điểm mới nổi bật được thể hiện ở việc Nhà nước đã đưa ra 04 hình thức bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Khoản 2 Điều 91 Luật Đất đai năm 2024 quy định: “Việc bồi thường về đất được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, trường hợp không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Trường hợp người có đất thu hồi được bồi thường bằng đất, bằng nhà ở mà có nhu cầu được bồi thường bằng tiền thì được bồi thường bằng tiền theo nguyện vọng đã đăng ký khi lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”. Cùng với đó, khoản 1 Điều 98 Luật Đất đai năm 2024 quy định, khi người sử dụng đất bị thu hồi đất ở thì được bồi thường bằng đất ở hoặc bằng nhà ở hoặc bằng tiền hoặc bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi; đồng thời, khoản 1 Điều 96 Luật Đất đai năm 2024 và khoản 1 Điều 99 Luật Đất đai năm 2024 cũng quy định khi người sử dụng đất bị thu hồi đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp thì được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng (đất nông nghiệp hoặc đất phi nông nghiệp) hoặc bằng tiền hoặc bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc bằng nhà ở. Điều này đã thể hiện sự đa dạng hóa các hình thức bồi thường về đất; hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi được bồi thường bằng đất có cùng mục đích với đất bị thu hồi hoặc bằng tiền, bằng đất khác hoặc bằng nhà ở phù hợp với nhu cầu của người có đất bị thu hồi và quỹ đất của từng địa phương. Nhìn chung, việc quy định thêm 02 hình thức bồi thường đất có mục đích sử dụng khác và bồi thường nhà ở sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho người dân có đất thu hồi nhanh chóng khôi phục, ổn định cuộc sống. Ví dụ: Trường hợp bị thu hồi đất nông nghiệp, thay vì được bồi thường đất có cùng mục đích sử dụng là đất nông nghiệp ở xa (theo quy định của Luật Đất đai năm 2013) thì theo quy định mới người bị thu hồi đất có thể nhận bồi thường đất phi nông nghiệp để chuyển đổi nghề nghiệp từ nông nghiệp sang sản xuất, thương mại, dịch vụ, qua đó giúp họ có được cuộc sống được thuận lợi hơn (theo quy định của Luật Đất đai năm 2024).
Tuy nhiên, các quy định về trường hợp bồi thường, điều kiện bồi thường có thể phát sinh khó khăn nhất định trong quá trình triển khai quy định trên thực tế. Cụ thể, tại Điều 95 Luật Đất đai năm 2024 quy định về các trường hợp được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Cũng theo khoản 2 Điều 95 Luật Đất đai năm 2024 thì các trường hợp Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo Điều 78 và Điều 79 Luật Đất đai năm 2024 sẽ được bồi thường về đất nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Nhưng việc quy định về các trường hợp khác được bồi thường về đất với các điều kiện khác tại khoản 3 Điều 95 Luật Đất đai năm 2024, cụ thể “Chính phủ quy định trường hợp khác được bồi thường về đất và điều kiện được bồi thường về đất” lại phát sinh vấn đề đặt ra, cần được làm rõ “trường hợp khác” mà cũng được bồi thường về đất là trường hợp nào? Mặc dù, quy định này cũng thể hiện sẽ giao Chính phủ quy định, tuy nhiên cũng cần xác định rõ để có hướng dẫn chi tiết. Ngoài ra, quy định để có một suất tái định cư tối thiểu hiện chưa rõ ràng, cụ thể. Khoản 1 Điều 98, khoản 1 Điều 96, khoản 1 Điều 99 Luật Đất đai năm 2024 xác định việc bồi thường là: Được bồi thường bằng đất ở hoặc bằng nhà ở hoặc bằng tiền hoặc bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi, được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng (đất nông nghiệp hoặc đất phi nông nghiệp) hoặc bằng tiền hoặc bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc bằng nhà ở. Tuy nhiên, trong trường hợp nếu số tiền bồi thường không đủ để có một suất tái định cư tối thiểu bằng nhà ở thì người sử dụng đất có đất bị thu hồi có được hỗ trợ để có một suất tái định cư tối thiểu hay không thì hiện nay chưa có quy định rõ. Song song đó, việc xác định thửa đất được bồi thường khác mục đích đối với thửa đất bị thu hồi sẽ tương đương với giá trị về đất bị thu hồi. Tuy nhiên, đối với những thửa đất được bồi thường mà tương đương với giá trị về đất bị thu hồi nhưng diện tích không đủ hạn mức tối thiểu để tách thửa và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại địa phương thì việc thực hiện bồi thường trong trường hợp này như thế nào? Do vậy, để tổ chức thi hành các quy định này đạt hiệu quả trên thực tế, tránh sự nhầm lẫn trong các cách hiểu khác nhau, dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất trong quá trình áp dụng, cần ban hành văn bản quy định chi tiết các vấn đề sau đây:
Một là, trong văn bản hướng dẫn thi hành cần phải làm rõ điều kiện được bồi thường về đất và trường hợp khác được bồi thường về đất tại khoản 3 Điều 95 Luật Đất đai năm 2024 là trường hợp nào. Tác giả đề xuất quy định cụ thể là: “Trường hợp không được quy định tại Điều 78 và Điều 79 Luật Đất đai năm 2024”.
Hai là, cần có hướng dẫn cụ thể để xử lý trường hợp nếu số tiền bồi thường không đủ để có một suất tái định cư tối thiểu bằng nhà ở thì người sử dụng đất có đất bị thu hồi có được hỗ trợ để có một suất tái định cư tối thiểu hay không và trình tự, thủ tục để thực hiện việc mua suất định cư tối thiểu trong trường hợp này được thực hiện như thế nào.
Ba là, trong các văn bản hướng dẫn cần quy định chi tiết việc bồi thường đối với những thửa đất được bồi thường mà tương đương với giá trị về đất bị thu hồi nhưng diện tích không đủ hạn mức tối thiểu để tách thửa và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại địa phương.
2.4. Về giải quyết tranh chấp đất đai
Theo đánh giá của Tòa án nhân dân tối cao thì các vụ án hành chính ngày càng tăng, trong đó các tranh chấp chủ yếu liên quan đến đất đai và là những vụ án khó, phức tạp, thời gian giải quyết kéo dài[3]. Để khắc phục những hạn chế còn tồn tại, Luật Đất đai năm 2024 đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về giải quyết tranh chấp đất đai với những điểm mới nổi bật sau đây: (i) Bổ sung quy định hòa giải tranh chấp đất đai đối với địa bàn cấp huyện không thành lập đơn vị hành chính cấp xã; (ii) Bổ sung hình thức hòa giải tranh chấp đất đai tại Tòa án được thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải, đối thoại tại Tòa án và pháp luật về tố tụng dân sự; (iii) Bổ sung quy định hòa giải tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan tới đất đai bằng hòa giải thương mại thực hiện theo pháp luật về hòa giải thương mại; tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai do Tòa án nhân dân giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự hoặc do Trọng tài thương mại giải quyết theo quy định của pháp luật trọng tài thương mại tại Điều 236 Luật Đất đai năm 2024. Việc Luật Đất đai năm 2024 bổ sung thẩm quyền của Trọng tài thương mại trong việc giải quyết tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai là điểm mới đột phá, tạo thuận lợi, nhanh chóng hơn trong việc giải quyết các tranh chấp đất đai.
Tuy nhiên, quy định này đặt ra vấn đề cần được hướng dẫn: Luật Đất đai năm 2024 chỉ mới làm rõ khái niệm về “tranh chấp đất đai” tại khoản 47 Điều 3 Luật Đất đai năm 2024, mà chưa có khái niệm “tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai”. Như vậy, để xác định những tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai sẽ dựa vào từng cách hiểu khác nhau của chủ thể áp dụng, điều này vô hình chung tạo sự không thống nhất trong quá trình lựa chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Đối với những tranh chấp thuộc thẩm quyền của trọng tài thương mại có phải hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã hay không, điều này chưa được hướng dẫn cụ thể. Trong trường hợp Ủy ban nhân dân các cấp không phối hợp cung cấp hồ sơ, tài liệu để phục vụ cho công tác giải quyết tại trọng tài thương mại thì xử lý ra sao, hiện nay chưa có quy định ràng buộc trách nhiệm của cơ quan trong công tác phối hợp trong giải quyết tranh chấp đất đai? Tuy nhiên, do đây là nội dung mới trong Luật Đất đai năm 2024 nên để có cơ sở rõ ràng cho việc áp dụng trên thực tế, bảo đảm sự thống nhất trong quá trình lựa chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, phát huy tốt được vai trò của trọng tài thương mại, cần phải ban hành văn bản hướng dẫn quy định chi tiết, rõ ràng các vấn đề sau đây:
Một là, xuất phát từ bản chất của hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác mà có thể quy định tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại có liên quan đến đất đai là những xung đột, mâu thuẫn phát sinh từ các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác có đối tượng trực tiếp là quyền sử dụng đất[4]. Trên cơ sở đó, theo tác giả, văn bản hướng dẫn cần quy định rõ khái niệm “tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai” là những xung đột, mâu thuẫn phát sinh từ các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác có đối tượng trực tiếp là quyền sử dụng đất hoặc quy định các tiêu chí để xác định đó là tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai.
Hai là, hướng dẫn cụ thể đối với những tranh chấp thuộc thẩm quyền của Trọng tài thương mại có phải hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã hay không. Theo quan điểm của tác giả, để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với quy định tại khoản 2 Điều 235 Luật Đất đai năm 2024 thì việc giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Trọng tài thương mại sẽ thực hiện hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp. Cùng với đó, cần có hướng dẫn chi tiết một số nội dung phát sinh trong quá trình hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã.
Ba là, văn bản hướng dẫn cần quy định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc phối hợp cung cấp hồ sơ, tài liệu để phục vụ cho công tác giải quyết tại Trọng tài thương mại; đồng thời, quy định trách nhiệm pháp lý của Ủy ban nhân dân các cấp trong trường hợp Ủy ban nhân dân các cấp không phối hợp cung cấp hồ sơ, tài liệu để phục vụ cho Trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp đất đai.
3. Kết luận
So với Luật Đất đai năm 2013, Luật Đất đai năm 2024 có nhiều điểm mới, giải pháp thiết thực để khắc phục những tồn tại, bất cập phát sinh và mang đến nhiều thuận lợi cho người dân, đồng thời tạo điều kiện phát triển kinh tế của đất nước. Để những quy định mới của Luật Đất đai năm 2024 phát huy hiệu quả, việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành đóng vai trò vô cùng quan trọng. Để có được những quy định, hướng dẫn chi tiết bám sát tinh thần Hiến pháp, quy định của Luật Đất đai năm 2024, cần xác định mục tiêu, giải pháp trên cơ sở dự báo tác động, lường trước những hệ quả và đặc biệt là phải có tính khả thi. Vì vậy, cần có những hướng dẫn cụ thể, rõ ràng và chi tiết trong các văn bản hướng dẫn thi hành như nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ, ngành khác có liên quan trong thời gian tới. Việc ban hành quy định chi tiết dựa trên nguyên tắc hiểu rõ, hiểu đúng, vận dụng đúng quy định pháp luật góp phần thể chế hoá tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao./.
Đặng Thị Ngọc Thi
Trường Cao đẳng Luật miền Nam
[1] . Nguyễn Đắc Nhẫn (2024), Thể chế Nghị quyết số 18-NQ/TW của Đảng, Luật Đất đai (năm 2024) đã được hoàn thiện với nhiều nội dung đổi mới quan trọng, Tạp chí Môi trường, Số 1/2024, tr. 9.
[2]. Nguyễn Thị Nga (2024), Một số điểm mới của Luật Đất đai năm 2024 và những đề xuất nhằm tổ chức triển khai có hiệu quả trong thời gian tới, Tài liệu Hội nghị phổ biến, quán triệt Luật Đất đai năm 2024 của Ngành Tư pháp, tr. 179.
[3]. Báo cáo số 47/BC-TA ngày 20/10/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của các Tòa án trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV.
[4]. Phùng Thị Phương Thảo (2024), Giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật Đất đai năm 2024, Tạp chí Môi trường, Số 2/2024, tr. 27.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 407), tháng 6/2024)