Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã cắt giảm thủ tục hành chính và tạo thuận lợi hơn cho việc đăng ký doanh nghiệp, gia nhập thị trường; nâng cao khung khổ pháp lý về quản trị doanh nghiệp và nâng cao mức độ bảo vệ nhà đầu tư, cổ đông theo chuẩn mực, thông lệ quốc tế tốt và phổ biến; thúc đẩy phát triển thị trường vốn nhằm đa dạng hóa nguồn vốn cho sản xuất, đầu tư kinh doanh; tạo thuận lợi hơn cho tổ chức lại và mua bán doanh nghiệp, bảo đảm tương thích với Luật Cạnh tranh năm 2018 đối với các quy định về sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp… Đó là những điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 2020 được tác giả phân tích trong bải viết này.
Luật Doanh nghiệp năm 2020 được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 9 bao gồm 10 chương, 218 điều với nhiều điểm đột phá, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Đây là dự án luật không chỉ được cộng đồng các doanh nghiệp mong đợi mà còn được cơ quan nhà nước các cấp quan tâm bởi sự kỳ vọng vào việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, duy trì tăng trưởng, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Những điểm mới, thay đổi quan trọng trong các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, cắt giảm thủ tục hành chính và tạo thuận lợi hơn cho việc đăng ký doanh nghiệp, gia nhập thị trường
Luật Doanh nghiệp năm 2020 bãi bỏ thủ tục thông báo mẫu dấu, đồng thời quy định doanh nghiệp có thể sử dụng dấu “số” thay cho dấu “truyền thống”; thiết lập cơ chế đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử với bộ hồ sơ điện tử mà không phải nộp thêm bộ hồ sơ giấy như hiện nay.
- Về con dấu của doanh nghiệp: Điều 43 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: Dấu bao gồm dấu được làm tại cơ sở khắc dấu hoặc dấu dưới hình thức chữ ký số theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. Doanh nghiệp quyết định loại dấu, số lượng, hình thức và nội dung dấu của doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện và đơn vị khác của doanh nghiệp. Việc quản lý và lưu giữ dấu thực hiện theo quy định của Điều lệ công ty hoặc quy chế do doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc đơn vị khác của doanh nghiệp có dấu ban hành. Doanh nghiệp sử dụng dấu trong các giao dịch theo quy định của pháp luật.
Như vậy, so với quy định về con dấu tại Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã bỏ quy định trước khi sử dụng dấu, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
- Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp năm 2020 bổ sung đối tượng không được phép thành lập, quản lý doanh nghiệp, đó là:
+ Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi;
+ Công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam (trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp);
+ Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự.
- Rút ngắn thời gian báo trước khi tạm ngừng kinh doanh: Khoản 1 Điều 200 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: Doanh nghiệp có quyền tạm ngừng kinh doanh nhưng phải thông báo bằng văn bản về thời điểm và thời hạn tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh cho cơ quan đăng ký kinh doanh chậm nhất 15 ngày trước ngày tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh. Quy định này áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã thông báo. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã rút ngắn thời gian báo trước khi tạm ngừng kinh doanh. Cụ thể, doanh nghiệp phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh chậm nhất là 03 ngày làm việc trước ngày tạm ngừng kinh doanh hoặc tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã thông báo. Như vậy, thời gian báo trước khi tạm ngừng kinh doanh được rút ngắn từ chậm nhất 15 ngày xuống còn 03 ngày làm việc.
- Bổ sung hồ sơ đăng ký công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần: So với Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020 yêu cầu hồ sơ đăng ký công ty trách nhiệm hữu hạn (Điều 21), công ty cổ phần (Điều 22) phải có bản sao giấy tờ pháp lý của người đại diện theo pháp luật, tương tự như thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn và cổ đông sáng lập công ty cổ phần.
- Bổ sung quy định về chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết: So với Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020 bổ sung quy định về chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết. Cụ thể là cổ phần phổ thông được dùng làm tài sản cơ sở để phát hành chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết được gọi là cổ phần phổ thông cơ sở. Chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết có lợi ích kinh tế và nghĩa vụ tương ứng với cổ phần phổ thông cơ sở, trừ quyền biểu quyết. Chính phủ quy định về chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết.
- Quy định loại trừ trường hợp giải thể do bị thu hồi giấy chứng nhận: Theo điểm d khoản 1 Điều 207 Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì doanh nghiệp bị giải thể trong trường hợp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Luật Quản lý thuế có quy định khác. Quy định này bảo đảm tính đồng bộ với quy định của Luật Quản lý thuế năm 2019. Bởi lẽ, điểm g khoản 1 và khoản 2 Điều 125 Luật Quản lý thuế năm 2019 quy định:
“1. Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế bao gồm:
...
g) Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
2. Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế quy định tại khoản 1 Điều này chấm dứt hiệu lực kể từ khi tiền thuế nợ được nộp đủ vào ngân sách nhà nước”.
Thứ hai, nâng cao khung khổ pháp lý về quản trị doanh nghiệp và nâng cao mức độ bảo vệ nhà đầu tư, cổ đông theo chuẩn mực, thông lệ quốc tế tốt và phổ biến
Luật Doanh nghiệp năm 2020 mở rộng mức độ và phạm vi quyền của cổ đông nhằm tạo điều kiện thuận lợi để cổ đông bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Hạn chế người quản lý hoặc cổ đông lớn lạm dụng địa vị, quyền hạn gây thiệt hại cho công ty và cổ đông nhỏ. Đồng thời, bổ sung các quy định về quản trị công ty cổ phần theo thông lệ quốc tế tốt về quản trị doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu lực quản trị và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp có sở hữu nhà nước. Cụ thể là sửa đổi khái niệm doanh nghiệp nhà nước để xác định rõ loại doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu hơn 50% (đến dưới 100%) vốn điều lệ để có cách thức và phương thức quản lý, giám sát phù hợp; bổ sung quy định kiểm soát tập quyền, chống xung đột lợi ích và bảo đảm tính minh bạch hóa, công khai hóa thông tin của doanh nghiệp có sở hữu nhà nước.
+ Thay đổi khái niệm doanh nghiệp nhà nước: Khái niệm doanh nghiệp nhà nước theo khoản 11 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định tại Điều 88 Luật này (còn theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, thì doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ).
+ Doanh nghiệp nhà nước phải thành lập Ban kiểm soát: Theo khoản 1 Điều 103 Luật Doanh nghiệp năm 2020, căn cứ quy mô của công ty, cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định thành lập Ban kiểm soát có từ 01 đến 05 kiểm soát viên, trong đó có Trưởng Ban kiểm soát (theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì bổ nhiệm 01 kiểm soát viên hoặc thành lập Ban kiểm soát gồm 03 đến 05 kiểm soát viên). Nhiệm kỳ kiểm soát viên không quá 05 năm và có thể được bổ nhiệm lại nhưng không quá 02 nhiệm kỳ liên tục tại công ty đó. Trường hợp Ban kiểm soát chỉ có 01 kiểm soát viên thì kiểm soát viên đó đồng thời là Trưởng Ban kiểm soát và phải đáp ứng tiêu chuẩn của Trưởng Ban kiểm soát.
Thứ ba, thúc đẩy phát triển thị trường vốn nhằm đa dạng hóa nguồn vốn cho sản xuất, đầu tư kinh doanh
- Bổ sung quy định về chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết (NVDR) đa dạng hóa thêm sản phẩm giao dịch cho thị trường chứng khoán; đồng thời, giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề hạn chế sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, có cơ hội lớn hơn trong thu hút vốn từ nhà đầu tư, bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài.
- Sửa đổi quy định xử lý phần vốn góp trong một số trường hợp đặc biệt. Cụ thể, so với quy định hiện hành, việc xử lý phần vốn góp trong một số trường hợp đặc biệt được sửa đổi, bổ sung như sau:
+ Trường hợp thành viên bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì quyền và nghĩa vụ của thành viên đó trong công ty được thực hiện thông qua người đại diện (pháp luật hiện hành quy định được thực hiện thông qua người giám hộ).
+ Trường hợp thành viên tặng cho một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác thì người được tặng cho trở thành thành viên công ty theo quy định sau đây: Người được tặng cho thuộc đối tượng thừa kế theo pháp luật theo quy định của Bộ luật Dân sự thì người này đương nhiên là thành viên công ty; người được tặng cho không thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản 6 Điều 53 Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì người này chỉ trở thành thành viên công ty khi được Hội đồng thành viên chấp thuận.
+ Bổ sung trường hợp thành viên công ty là cá nhân bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc thì thành viên đó ủy quyền cho người khác thực hiện một số hoặc tất cả quyền và nghĩa vụ của mình tại công ty.
+ Bổ sung trường hợp thành viên công ty là cá nhân bị Tòa án cấm hành nghề, làm công việc nhất định hoặc thành viên công ty là pháp nhân thương mại bị Tòa án cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định thuộc phạm vi ngành, nghề kinh doanh của công ty thì thành viên đó không được hành nghề, làm công việc đã bị cấm tại công ty đó hoặc công ty tạm ngừng, chấm dứt kinh doanh ngành, nghề có liên quan theo quyết định của Tòa án.
- Sửa đổi quy định về quyền của cổ đông phổ thông: Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty để có các quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 114 Luật này. Tuy nhiên, theo Luật Doanh nghiệp năm 2020, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 05% tổng số cổ phần phổ thông trở lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định tại Điều lệ công ty có quyền của cổ đông phổ thông quy định tại khoản 2 Điều 115 Luật này.
- Doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh: Theo Điều 205 Luật Doanh nghiệp năm 2020, doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hoặc công ty hợp danh theo quyết định của chủ doanh nghiệp tư nhân nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
+ Doanh nghiệp được chuyển đổi phải có đủ các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 27 của Luật này;
+ Chủ doanh nghiệp tư nhân cam kết bằng văn bản chịu trách nhiệm cá nhân bằng toàn bộ tài sản của mình đối với tất cả khoản nợ chưa thanh toán và cam kết thanh toán đủ số nợ khi đến hạn;
+ Chủ doanh nghiệp tư nhân có thỏa thuận bằng văn bản với các bên của hợp đồng chưa thanh lý về việc công ty được chuyển đổi tiếp nhận và tiếp tục thực hiện các hợp đồng đó;
+ Chủ doanh nghiệp tư nhân cam kết bằng văn bản hoặc có thỏa thuận bằng văn bản với các thành viên góp vốn khác về việc tiếp nhận và sử dụng lao động hiện có của doanh nghiệp tư nhân.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 chỉ quy định trường hợp chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Bỏ quy định “báo cáo thay đổi thông tin của người quản lý doanh nghiệp”: Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định doanh nghiệp phải báo cáo cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp có trụ sở chính trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có thay đổi thông tin về họ, tên, địa chỉ liên lạc, quốc tịch, số thẻ căn cước công dân, giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của thành viên Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần, thành viên Ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã bãi bỏ quy định này.
- Bổ sung nghĩa vụ của cổ đông: Theo đó, bên cạnh việc kế thừa quy định về nghĩa vụ của cổ đông phổ thông tại Điều 115 Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020 bổ sung quy định: Bảo mật các thông tin được công ty cung cấp theo quy định tại Điều lệ công ty và pháp luật; chỉ sử dụng thông tin được cung cấp để thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; nghiêm cấm phát tán hoặc sao, gửi thông tin được công ty cung cấp cho tổ chức, cá nhân khác.
Thứ tư, tạo thuận lợi hơn cho tổ chức lại và mua bán doanh nghiệp, bảo đảm tương thích với Luật Cạnh tranh năm 2018 đối với các quy định về sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp; bổ sung quy định về chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty cổ phần (thay vì chỉ được chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn như quy định hiện hành).
Những sửa đổi, bổ sung nêu trên của Luật Doanh nghiệp năm 2020 sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động thành lập và đăng ký doanh nghiệp; cắt giảm chi phí và thời gian trong khởi sự kinh doanh; góp phần nâng xếp hạng chỉ số khởi sự kinh doanh lên ít nhất 25 bậc (theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới); nâng cao cơ chế bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư, cổ đông, thành viên của doanh nghiệp; thúc đẩy quản trị doanh nghiệp đạt chuẩn mực theo thông lệ tốt và phổ biến trong khu vực và quốc tế; nâng mức xếp hạng chỉ số bảo vệ nhà đầu tư lên ít nhất 20 bậc (theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới); nâng cao hiệu lực quản trị, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với doanh nghiệp mà nhà nước có phần vốn góp chi phối; tạo thuận lợi hơn, giảm chi phí trong tổ chức lại doanh nghiệp (sáp nhập, hợp nhất, chia, tách và chuyển đổi loại hình doanh nghiệp).
Luật Doanh nghiệp năm 2020 có nhiều điểm mới, thay đổi sẽ tác động tích cực đến cộng đồng doanh nghiệp, môi trường kinh doanh sẽ thuận lợi hơn, thông thoáng, minh bạch và công bằng hơn; công tác quản lý nhà nước, hiệu lực quản lý nhà nước được tăng cường do số liệu thống kê về doanh nghiệp sẽ chính xác hơn, sát với thực tế hơn, đầy đủ hơn và dễ tiếp cận hơn cho các bên có liên quan; qua đó, tạo thuận lợi hơn cho cơ quan quản lý nhà nước và xã hội nói chung tham gia giám sát doanh nghiệp; phát hiện và ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm của doanh nghiệp. Những thay đổi trên kỳ vọng sẽ mang đến môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp và thu hút đầu tư.
Bộ Tư pháp