1. Đôi nét về thực trạng về hành lang pháp lý hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian qua
Trong những năm qua, dưới ánh sáng của đường lối lãnh đạo của Đảng, chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước, cùng với các tổ chức kinh tế lớn, lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đã đóng góp một phần không hề nhỏ trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thực tế đã chứng minh, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa đã thúc đẩy động lực tăng trưởng của nền kinh tế và trở thành một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế quốc dân[2]. Mặc dù có sự đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước bởi những hoạt động kinh doanh của mình, nhưng các doanh nghiệp nhỏ và vừa luôn đối mặt với nhiều khó khăn từ kinh tế, nhân sự đến trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp.
Hiện nay, vấn đề còn tồn đọng ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam không chỉ ở trình độ quản lý, điều hành của các chủ doanh nghiệp mà còn xuất phát từ việc thiếu hụt nghiêm trọng nguồn vốn để phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát triển của doanh nghiệp. Song song với khó khăn về nguồn vốn thì khó khăn về nhân lực cũng là điều đáng quan tâm đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vì thực chất, để phát triển được, để hoạt động kinh doanh đi vào quỹ đạo thì yếu tố nhân lực là điều vô cùng cấp thiết, quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay đang đối mặt với sự thiếu hụt cả về số lượng nhân sự và chất lượng của đội ngũ nhân sự này. Những điều này là nguyên nhân chính dẫn đến việc hạn chế khả năng phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trước khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2107 ra đời, đã có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp nói chung và cũng có tác động trực tiếp, gián tiếp trong việc hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế[3]. Tuy nhiên, việc điều tiết, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa thời gian qua vẫn chưa được quan tâm sâu sắc bởi các chính sách, chiến lược mang tính quốc gia nhằm có những trợ giúp nhất định đối với sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam. Nói cách khác, khung pháp lý chuẩn mực để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam chưa thực sự thúc đẩy sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp này và “tạo đà bật” cạnh tranh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh đối với các loại hình doanh nghiệp khác.
Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua bản Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản Hiến pháp năm 2013 đã đạt được các mục đích, yêu cầu đặt ra là thể chế hóa những đường lối, chính sách lớn của Đảng; ghi nhận những thành tựu của hơn 30 năm đổi mới; xứng tầm một bản Hiến pháp mang tính ổn định, lâu dài.
Một trong những điểm mới nổi bật của Hiến pháp năm 2013 là lần đầu tiên doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác được ghi trong Hiến pháp: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Điều 50).
Về các thành phần kinh tế, Hiến pháp Điều 51 năm 2013 khẳng định: “(i) Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; (ii) Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; (iii) Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa”.
Cụ thể hóa chủ tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 gồm 04 chương, 35 điều được Quốc hội thông qua ngày 12/6/2017, đã tạo một hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật đã chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018. Đây là đạo luật được cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa mong đợi sẽ tạo sân chơi bình đẳng và là tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia.
2. Những điểm nổi bật của Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017
Một là, về việc hỗ trợ tiếp cận tín dụng[4]
Để các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại thì Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 đã quy định các cơ chế cụ thể để khuyến khích ngân hàng thương mại cấp tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ thay đổi theo từng thời kỳ tùy vào tình hình kinh tế - xã hội và nhu cầu của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo đó: (i) Trong từng thời kỳ, Chính phủ quyết định chính sách hỗ trợ tổ chức tín dụng tăng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa; khuyến khích tổ chức tín dụng cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp và biện pháp phù hợp khác; khuyến khích thành lập tổ chức tư vấn độc lập để xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp nhỏ và vừa; (ii) doanh nghiệp nhỏ và vừa được cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, tăng cường năng lực quản trị, kỹ năng quản lý, minh bạch hóa tài chính của doanh nghiệp để nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng; (iii) Doanh nghiệp nhỏ và vừa được cấp bảo lãnh tín dụng tại Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định tại Điều 9 của Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017.
Hai là, về Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa
Theo Điều 9 Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 thì: “Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập. Đồng thời, quỹ có chức năng cấp bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên tài sản bảo đảm hoặc phương án sản xuất, kinh doanh khả thi hoặc xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết; không được từ chối bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đủ điều kiện được bảo lãnh”.
Ba là, về hỗ trợ thuế, kế toán
Điều 10 Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 đã quy định: doanh nghiệp nhỏ và vừa được áp dụng có thời hạn mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường áp dụng cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp siêu nhỏ được áp dụng các thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán đơn giản theo quy định của pháp luật về thuế, kế toán. Việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể làm giảm nguồn thu ngân sách trong thời gian ngắn hạn, nhưng về dài hạn sẽ giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao năng lực tích lũy, năng lực cạnh tranh.
Bốn là, về hỗ trợ mặt bằng sản xuất
Theo khoản 1 Điều 11 Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 thì: “căn cứ vào điều kiện quỹ đất thực tế tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định bố trí quỹ đất để hình thành, phát triển cụm công nghiệp; khu chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản, hải sản tập trung cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt”. Bên cạnh đó, địa phương phải bố trí trong quy hoạch quỹ đất cho doanh nghiệp nhỏ và vừa làm mặt bằng sản xuất, đầu tư xây dựng cụm công nghiệp dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa có cơ chế miễn, giảm tiền thuê đất, thuế sử dụng đất. Ngoài ra, căn cứ vào điều kiện ngân sách địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định hỗ trợ giá thuê mặt bằng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp trên địa bàn. Thời gian hỗ trợ tối đa là 05 năm kể từ ngày ký hợp đồng thuê mặt bằng (khoản 2). Việc hỗ trợ giá thuê mặt bằng cho được thực hiện thông qua việc bù giá cho nhà đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp để giảm giá cho thuê mặt bằng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Số tiền bù giá được trừ vào số tiền thuê đất hoặc được hỗ trợ từ ngân sách địa phương.
Năm là, về hỗ trợ công nghệ; hỗ trợ cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung[5]
Đây là cơ hội để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể nghiên cứu, đổi mới công nghệ, tiếp nhận, cải tiến, hoàn thiện, làm chủ công nghệ thông qua các hoạt động nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, tìm kiếm, giải mã, chuyển giao công nghệ; xác lập, khai thác, quản lý, bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp.
Đối với Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập hoặc tham gia thành lập theo hình thức đối tác công tư cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung. Doanh nghiệp và tổ chức đầu tư, kinh doanh khác được thành lập cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung. Đồng thời, cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung được hưởng các hỗ trợ cụ thể như: (i) Miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp theo quy định của pháp luật; (ii) Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.
Sáu là, về hỗ trợ mở rộng thị trường[6]
Nhằm phát triển thị trường tiêu thụ trong nước, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa xác lập được thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá ngay tại thị trường nội địa, Nhà nước cần có chính sách phù hợp phát triển hệ thống bán lẻ thúc đẩy sản xuất trong nước và khuyến khích tiêu dùng hàng Việt Nam, từ đó mới tạo ra được sản phẩm cạnh tranh của địa phương và giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa giành được vị thế ngay tại thị trường nội địa. Với mục tiêu đó, tại khoản 1 Điều 13 Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 quy định: “Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập hoặc tham gia thành lập chuỗi phân phối sản phẩm theo hình thức đối tác công tư. Doanh nghiệp và tổ chức đầu tư, kinh doanh khác được thành lập chuỗi phân phối sản phẩm”. Các doanh nghiệp, tổ chức đầu tư, kinh doanh chuỗi phân phối sản phẩm nếu có ít nhất 80% số doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cung ứng cho chuỗi sản phẩm sản xuất tại Việt Nam được hưởng các hỗ trợ sau đây: (i) Miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp theo quy định của pháp luật; (ii) Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ được hưởng ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
Bẩy là, về hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý[7]
Các thông tin doanh nghiệp được hỗ trợ gồm: (i) Thông tin về kế hoạch, chương trình, dự án, hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; (ii) Thông tin chỉ dẫn kinh doanh; thông tin về tín dụng, thị trường, sản phẩm, công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp; (iii) Các thông tin khác theo nhu cầu của doanh nghiệp phù hợp với quy định của pháp luật. Các thông tin trên được công bố trên Cổng thông tin quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, trang thông tin điện tử của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp.
Về vấn đề tư vấn, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xây dựng mạng lưới tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi là mạng lưới tư vấn viên). Doanh nghiệp nhỏ và vừa được miễn, giảm chi phí tư vấn khi sử dụng dịch vụ tư vấn thuộc mạng lưới tư vấn viên.
Về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan, tổ chức, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện các hoạt động sau đây: (i) Xây dựng, quản lý, duy trì, cập nhật, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu về pháp luật; (ii) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý để cung cấp thông tin, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, tư vấn pháp luật.
Tám là, về hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực[8]
Đối với sự phát triển của bất kỳ một cơ quan, tổ chức nào thì nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đem lại thành công. Vì vậy, để đảm bảo các doanh nghiệp nhỏ và vừa có nguồn nhân lực tốt, Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 đã quy định chính sách hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực như sau: (i) Doanh nghiệp nhỏ và vừa được miễn, giảm chi phí tham gia các khóa đào tạo có sử dụng ngân sách nhà nước về khởi sự kinh doanh và quản trị doanh nghiệp, đào tạo nghề cho lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa; (ii) Nhà nước tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo trực tuyến, chương trình đào tạo trên các phương tiện thông tin đại chúng khác cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; hỗ trợ hoạt động đào tạo trực tiếp tại doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực sản xuất, chế biến.
Chín là, về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh[9]
Doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh được hỗ trợ nếu đáp ứng 02 điều kiện: (i) Trước khi thành lập doanh nghiệp, hộ kinh doanh đã đăng ký và hoạt động theo quy định của pháp luật; (ii) Hộ kinh doanh có hoạt động sản xuất, kinh doanh liên tục ít nhất là 01 năm tính đến ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu. Theo đó, các nội dung hỗ trợ bao gồm:
- Tư vấn, hướng dẫn miễn phí về hồ sơ, thủ tục thành lập doanh nghiệp;
- Miễn lệ phí đăng ký doanh nghiệp và phí cung cấp thông tin doanh nghiệp lần đầu; miễn phí thẩm định, phí, lệ phí cấp phép kinh doanh lần đầu đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; miễn lệ phí môn bài trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu;
- Tư vấn, hướng dẫn miễn phí về các thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu; d) Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp;
- Miễn, giảm tiền sử dụng đất có thời hạn theo quy định của pháp luật về đất đai.
Đồng thời, doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật. Trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần được thành lập trên cơ sở chuyển đổi từ hộ kinh doanh, chủ hộ kinh doanh phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ chưa thanh toán của hộ kinh doanh, trừ trường hợp có thỏa thuận khác theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 cũng quy định hộ kinh doanh chấm dứt hoạt động kể từ thời điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi từ hộ kinh doanh được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Mười là, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo[10]
Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 quy định các điều kiện để doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo được hỗ trợ gồm: (i) Có thời gian hoạt động không quá 05 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu; (ii) Chưa thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng đối với công ty cổ phần.
Các nội dung hỗ trợ: (i) Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ sử dụng trang thiết bị tại cơ sở kỹ thuật; hỗ trợ tham gia cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung; hướng dẫn thử nghiệm, hoàn thiện sản phẩm mới, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới; (ii) Hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây dựng, phát triển sản phẩm; thu hút đầu tư; tư vấn về sở hữu trí tuệ; thực hiện các thủ tục về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng; (iii) Hỗ trợ thông tin, truyền thông, xúc tiến thương mại, kết nối mạng lưới khởi nghiệp sáng tạo, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo; (iv) Hỗ trợ thực hiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ; (v) Trong từng thời kỳ, Chính phủ quyết định chính sách cấp bù lãi suất đối với khoản vay của doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Việc cấp bù lãi suất được thực hiện thông qua các tổ chức tín dụng.
Mười một là, về đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo[11]
Nhà đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo bao gồm quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc góp vốn thành lập, mua cổ phần, phần vốn góp của doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Các nhà đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có thời hạn đối với thu nhập từ khoản đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.
Quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo được hình thành từ vốn góp của các nhà đầu tư tư nhân để đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo theo các nguyên tắc sau đây: a) Đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo không quá 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp sau khi nhận đầu tư; b) Nhà đầu tư tư nhân góp vốn vào quỹ phải có điều kiện tài chính và chịu trách nhiệm về vốn góp của mình.
Căn cứ vào điều kiện ngân sách địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định giao cho tổ chức tài chính nhà nước của địa phương thực hiện đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo theo các nguyên tắc như: (i) Lựa chọn các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo đủ điều kiện để cùng đầu tư vào doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo; (ii) Khoản vốn đầu tư từ ngân sách địa phương không quá 30% tổng vốn đầu tư mà doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo huy động được từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo được lựa chọn; (iii) Tiến hành chuyển nhượng vốn đầu tư cho nhà đầu tư tư nhân trong thời hạn 05 năm kể từ thời điểm góp vốn đầu tư. Việc chuyển nhượng vốn đầu tư được thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.
Mười hai là, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị trong lĩnh vực sản xuất, chế biến được hỗ trợ nếu đáp ứng một trong các điều kiện sau đây: a) Tạo ra sản phẩm có lợi thế cạnh tranh về chất lượng và giá thành; b) Có đổi mới sáng tạo về quy trình công nghệ, vật liệu, linh kiện, máy móc, thiết bị (khoản 1 Điều 19). Theo đó, nội dung hỗ trợ bao gồm: (i) Đào tạo chuyên sâu về công nghệ, kỹ thuật sản xuất; tư vấn về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng, chiến lược phát triển sản phẩm theo cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; (ii) Cung cấp thông tin về nhu cầu kết nối, sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; (iii) Hỗ trợ phát triển thương hiệu, mở rộng thị trường sản phẩm của cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; (iv) Hỗ trợ sản xuất thử nghiệm, kiểm định, giám định, chứng nhận chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; (v) Trong từng thời kỳ, Chính phủ quyết định chính sách cấp bù lãi suất đối với khoản vay của doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Việc cấp bù lãi suất được thực hiện thông qua các tổ chức tín dụng (khoản 2 Điều 19).
Mười ba là, về Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa[12]
Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, do Thủ tướng Chính phủ thành lập. Quỹ thực hiên chức năng sau đây: (i) Cho vay, tài trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; (ii) Tiếp nhận và quản lý nguồn vốn vay, tài trợ, viện trợ, đóng góp, ủy thác của các tổ chức, cá nhân để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 đã chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018 đã và đang dần đi vào đời sống của doanh nghiệp nhỏ và vừa, hi vọng sẽ thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa để lực lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp được nhiều hơn nữa vào công cuộc phát triển nền kinh tế của đất nước./.
[4] Điều 8 Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017.