
Tại hội trường, thay mặt cơ quan chủ trì soạn thảo, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh đã giải trình, làm rõ một số vấn đề liên quan đến dự án Luật.
![]() |
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh đã giải trình, làm rõ một số vấn đề liên quan đến dự án Luật. |
Theo đó, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính được thực hiện theo trình tự, thủ tục rút gọn, với định hướng là tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định phục vụ việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp, đồng thời, nhằm tháo gỡ những vướng mắc, bất cập mang tính phổ quát, thực sự là “điểm nghẽn” phát sinh trong thực tiễn, bảo đảm thực hiện các chủ trương tăng cường ứng dụng công nghệ số, đơn giản hóa trình tự, thủ tục hành chính.
Những nội dung còn nhiều ý kiến khác nhau, có thể tác động lớn đến quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức hoặc thay đổi nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính chưa điều chỉnh trong lần sửa đổi này. Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan sẽ tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và báo cáo cấp có thẩm quyền đề xuất sửa đổi toàn diện Luật trong thời gian tới.
Không đề xuất điều chỉnh tăng mức tiền phạt tối đa
Nội dung tăng mức phạt tiền tối đa được xác định là vấn đề lớn, có tác động trực tiếp đến người dân và doanh nghiệp nên sẽ tiếp tục được nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, đánh giá tác động đầy đủ, toàn diện để trình Quốc hội xem xét khi sửa đổi toàn diện Luật Xử lý vi phạm hành chính trong thời gian tới.
Dự án Luật đang trình Quốc hội không đề xuất điều chỉnh tăng mức tiền phạt tối đa đối với bất kỳ lĩnh vực quản lý nhà nước nào được quy định tại Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành. Dự án Luật chỉ rà soát, bổ sung một số lĩnh vực mới chưa được quy định trong Luật hiện hành nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới. Ví dụ, bổ sung các lĩnh vực như: Bảo vệ dữ liệu cá nhân, công nghiệp công nghệ số, quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường biển để tạo cơ sở pháp lý cho việc xử phạt trong các lĩnh vực này một cách minh bạch, đồng bộ.
Bên cạnh việc quy định mức tiền phạt đối đa đối với các hành vi vi phạm trong từng lĩnh vực, khoản 3 Điều 24 dự thảo Luật dẫn chiếu việc xử lý vi phạm hành chính đối với một số lĩnh vực như (an toàn thực phẩm, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dữ liệu cá nhân….) tới các luật chuyên ngành, do các lĩnh vực này có tính chất đặc thù và mức xử phạt khác biệt.
Ví dụ: Lĩnh vực an toàn thực phẩm đã được áp dụng nguyên tắc “phạt theo giá trị vi phạm”, có thể lên tới 07 lần giá trị hàng hóa vi phạm theo quy định tại khoản 3 Điều 6 Luật An toàn thực phẩm hoặc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ dữ liệu cá nhân được nêu trong dự thảo Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân đối với tổ chức có hành vi vi phạm quy định chuyển dữ liệu cá nhân xuyên biên giới là 5% doanh thu năm liền trước của tổ chức đó (khoản 4 Điều 8). Hiện dự thảo Luật này đang được Quốc hội khoá XV xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 9.
Việc xử phạt không lập biên bản vẫn tuân thủ đầy đủ quy trình do pháp luật quy định
Dự án Luật dự kiến thay đổi giới hạn mức phạt tiền được áp dụng thủ tục xử phạt không lập biên bản từ “phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức” lên “phạt tiền đến 1.000.000 đồng đối với cá nhân, 2.000.000 đồng đối với tổ chức”. Quy định này được sửa đổi bởi những lý do sau:
(i) Nhằm góp phần đơn giản hóa thủ tục xử phạt vi phạm hành chính cho cá nhân, tổ chức vi phạm. Theo đó, với thủ tục không lập biên bản, việc giao quyết định xử phạt được thực hiện nhanh chóng, thuận tiện hơn, vì người vi phạm có thể nhận quyết định tại chỗ, tiết kiệm thời gian, không phải chờ đợi, đi lại để nhận quyết định xử phạt.
(ii) Mức tăng nói trên vẫn bảo đảm đúng bản chất “hành vi vi phạm nhỏ, thủ tục xử phạt đơn giản”, bảo đảm tương thích với bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay và phù hợp với tình hình biến động thu nhập, giá cả so với năm 2012 - thời điểm ban hành quy định này.
(iii) Việc xử phạt không lập biên bản vẫn tuân thủ đầy đủ quy trình do pháp luật quy định (ví dụ, người có thẩm quyền phải có đầy đủ căn cứ chứng minh hành vi vi phạm và phải ra quyết định xử phạt tại chỗ; quyết định phải thể hiện rõ căn cứ, hành vi vi phạm, mức phạt và cơ sở pháp lý áp dụng; số tiền nộp phạt vẫn phải gửi đến tài khoản kho bạc nhà nước để kiểm soát, đối chiếu). Mặt khác, cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính vẫn có quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử lý vi phạm hành chính được ban hành theo thủ tục không lập biên bản theo quy định của pháp luật. Do đó, vẫn bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xử phạt.
Quy định xử lý đối với một số loại tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ
Nhằm khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ; tránh gây thất thoát, lãng phí tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân, dự án Luật bổ sung quy định xử lý đối với một số loại tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ trong trường hợp hết thời hạn tạm giữ mà không xác định được người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp của tang vật, phương tiện theo hướng:
(i) Nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có khả năng bị hư hỏng, suy giảm chất lượng trong quá trình quản lý, bảo quản thì xử lý theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 125 của Luật Xử lý vi phạm hành chính (điểm b khoản 4 Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định đối với trường hợp tang vật là hàng hóa dễ hư hỏng thì người tạm giữ phải báo cáo ngay Thủ trưởng trực tiếp để xử lý, nếu để hư hỏng hoặc thất thoát thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật).
(ii) Nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có nguy cơ gây cháy nổ, ô nhiễm môi trường hoặc ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng trong quá trình quản lý, bảo quản thì xử lý theo quy định tại khoản 5 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính (khoản 5 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hoá phẩm độc hại thì phải tiến hành tiêu hủy).
Bên cạnh đó, để bảo đảm quyền sở hữu, sử dụng tài sản của tổ chức, cá nhân, dự thảo Luật đã quy định rõ thời điểm thực hiện các phương án xử lý nêu trên. Theo đó, người có thẩm quyền phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm thông báo tại điểm b khoản 4 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính (lần thông báo thứ nhất phải được thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện; lần thông báo thứ hai được thực hiện trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày thông báo thứ nhất) và chỉ được thực hiện các phương án xử lý sau thời hạn thông báo lần thứ hai. Đồng thời, việc xử lý tang vật, phương tiện cũng phải bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc “công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật” trong xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Ngoài ra, dự thảo Luật cũng giao Chính phủ quy định về việc xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính không xác định được người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp của tang vật, phương tiện.