
Phát triển bền vững là một nguyên tắc cơ bản trong Chiến lược phát triển đất nước nói chung và ngành du lịch ở nước ta nói riêng. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số” “Gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, giữ gìn tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau”. Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020” nhấn mạnh quan điểm phát triển bền vững là yếu tố xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước, kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường… Tại Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050” đã đưa ra các mục tiêu cụ thể phấn đấu đến năm 2030: Cắt giảm phát thải khí nhà kính; xanh hóa các nền kinh tế; xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững; xanh hóa quá trình chuyển đổi trên nguyên tắc bình đẳng, bao trùm, nâng cao năng lực chống chịu; đồng thời, định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực chủ yếu, trong đó có việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh trong ngành Du lịch.
1. Tổng quan về phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
Phát triển du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng đồng thời các yêu cầu về kinh tế - xã hội và môi trường, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động du lịch, không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch trong tương lai[1].
Như vậy, mục tiêu cơ bản của phát triển du lịch bền vững bao gồm: Mục tiêu về kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường. Theo đó, mục tiêu về kinh tế, đó là việc bảo đảm hiệu quả kinh tế cho địa phương tại các điểm du lịch; tạo cạnh tranh để các doanh nghiệp và các điểm du lịch có khả năng tiếp tục phát triển phồn thịnh và đạt lợi nhuận lâu dài. Mục tiêu kinh tế còn được thể hiện ở việc: Sử dụng hiệu quả nguồn lực, giảm thiểu mức sử dụng những nguồn tài nguyên quý hiếm và không thể tái tạo được trong việc phát triển và triển khai các cơ sở, phương tiện và dịch vụ du lịch. Đồng thời, tăng tối đa đóng góp của du khách đối với sự phát triển thịnh vượng của nền kinh tế địa phương tại các điểm du lịch, khu du lịch, bao gồm phần tiêu dùng của khách du lịch được giữ lại tại địa phương.
Mục tiêu về xã hội, chính là giải quyết vấn đề cơ hội việc làm, công bằng xã hội, thúc đẩy an sinh xã hội. Tăng thêm về số lượng, chất lượng việc làm tại địa phương cho ngành Du lịch, không có sự phân biệt đối xử về giới tính, độ tuổi, dân tộc,… Thực hiện công bằng, rộng rãi trong việc phân phối lại lợi ích kinh tế - xã hội thu được từ hoạt động du lịch cho tất cả mọi người trong cộng đồng. Duy trì, tăng cường chất lượng cuộc sống của người dân địa phương, bao gồm cơ cấu tổ chức xã hội, cách tiếp cận các nguồn tài nguyên, hệ thống hỗ trợ đời sống, tránh làm suy thoái và khai thác quá mức môi trường cũng như xã hội dưới mọi hình thức.
Mục tiêu về văn hóa, môi trường, đó là bảo tồn các giá trị văn hóa, bảo vệ tự nhiên, môi trường, nhằm tôn trọng và phát huy giá trị các di sản lịch sử, bản sắc văn hóa dân tộc, truyền thống và những bản sắc đặc biệt của cộng đồng dân cư địa phương tại các điểm du lịch. Hướng đến duy trì, nâng cao chất lượng của cảnh vật, kể cả ở nông thôn cũng như thành thị, tránh để môi trường xuống cấp. Có biện pháp giảm thiểu ô nhiễm nguồn không khí, nước, đất và rác thải từ du khách và các hãng du lịch[2].
Để đạt được các mục tiêu trên, việc khai thác và phát triển du lịch cần bảo đảm các nguyên tắc của phát triển du lịch bền vững bao gồm: (i) Phát triển du lịch bền vững, theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm; (ii) Phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, tài nguyên thiên nhiên, khai thác lợi thế của từng địa phương và tăng cường liên kết vùng; (iii) Bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam; (iv) Bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch; (v) Phát triển đồng thời du lịch nội địa và du lịch quốc tế; tôn trọng và đối xử bình đẳng đối với khách du lịch[3].
![]() |
Trong bối cảnh tốc độ đô thị hóa ngày càng cao, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch bền vững, cụ thể:
Thứ nhất, cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển du lịch bao gồm đường, nhà ga, sân bay, bến cảng, đường sắt, hệ thống thông tin viễn thông, mạng lưới điện, nước… Đây được coi là yếu tố tiền đề của ngành Du lịch, bảo đảm du khách có thể tiếp cận dễ dàng các điểm du lịch, đáp ứng nhu cầu cơ bản của du khách trong chuyến đi. Do đó, yếu tố hạ tầng có quan hệ mật thiết với việc phát triển du lịch bền vững và đóng vai trò thúc đẩy phát triển du lịch bền vững, biểu hiện: Hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn thiện cho phép phát triển du lịch ở những vùng sâu, vùng xa; cho phép giảm tải các điểm du lịch truyền thống, đồng thời khắc phục tính mùa vụ trong du lịch, phân phối lại thu nhập đến với cư dân địa phương…
Thứ hai, tài nguyên du lịch.
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa làm cơ sở để hình thành sản phẩm du lịch, khu du lịch, điểm du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch. Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa. Như vậy, tài nguyên du lịch là yếu tố đầu vào quan trọng của hoạt động du lịch, đồng thời, là yếu tố tác động đến phát triển bền vững du lịch.
Thứ ba, môi trường du lịch.
Đối với bất kỳ ngành kinh tế nào, muốn phát triển bền vững cũng cần gắn liền với yếu tố môi trường (bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường văn hóa xã hội). Riêng đối với du lịch, môi trường được xem là yếu tố sống còn quyết định sự tồn tại của các hoạt động du lịch. Ở những nơi mà môi trường tự nhiên suy thoái, ô nhiễm, ảnh hưởng đến sức khỏe con người rất khó để thu hút khách du lịch, đồng nghĩa với việc ngành du lịch không thể phát triển. Đối với môi trường văn hóa xã hội, nếu các giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống, lễ nghi, phong tục… bị suy thoái, lệch lạc cũng không còn sức hấp dẫn đối với du khách. Vì vậy, muốn phát triển du lịch bền vững, đòi hỏi yếu tố môi trường phải được bảo đảm.
Thứ tư, cộng đồng dân cư địa phương.
Là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành và xã hội hóa cao, hoạt động phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch bền vững cần phải gắn liền với sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương - nơi có tài nguyên du lịch. Cộng đồng dân cư địa phương chính là những người hiểu rõ nhất về tài nguyên của địa phương. Vì vậy, góp phần tích cực vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản tại địa phương góp phần tăng sự gắn kết, đoàn kết trong cộng đồng.
Thứ năm, nguồn nhân lực du lịch.
Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ. Chất lượng sản phẩm và dịch vụ du lịch phụ thuộc vào chất lượng của người lao động (thái độ phục vụ, khả năng giao tiếp, trình độ chuyên môn nghiệp vụ…). Ngành du lịch muốn phát triển bền vững cần phải có các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh, kích thích chi tiêu của khách du lịch. Để có các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao phụ thuộc rất nhiều chất lượng, khả năng và trình độ của nguồn nhân lực du lịch. Do đó, nguồn nhân lực du lịch là yếu tố ảnh hưởng tương hỗ đến phát triển du lịch bền vững.
2. Chính sách, pháp luật và thực trạng thực thi các chính sách, pháp luật về phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam hiện nay
Phát triển du lịch bền vững là một nguyên tắc cơ bản trong chiến lược phát triển đất nước nói chung và ngành Du lịch nước ta nói riêng. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về “Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn” (Nghị quyết số 08-NQ/TW) nhấn mạnh quan điểm phát triển du lịch bền vững; bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa và giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ môi trường và thiên nhiên...; đồng thời, xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển du lịch là tập trung phát triển sản phẩm du lịch biển, đảo, du lịch văn hóa, tâm linh, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao.
Để cụ thể hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng, ngày 19/6/2017, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Du lịch, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Ngay sau khi Luật Du lịch năm 2017 được ban hành, Chính phủ ban hành Nghị định số 168/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Du lịch; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành theo thẩm quyền Thông tư số 06/2017/TT-BVHTTDL ngày 15/12/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Du lịch; Thông tư số 13/2019/TT-BVHTTDL ngày 25/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 06/2017/TT-BVHTTDL ngày 15/12/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Du lịch; phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 33/2018/TT-BTC ngày 30/3/2018 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp và quản lý phí thẩm định cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế, giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa; phí thẩm định cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch; lệ phí cấp giấy phép thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nước ngoài; Thông tư số 34/2018/TT-BTC ngày 30/3/2018 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp và quản lý phí thẩm định công nhận hạng cơ sở lưu trú du lịch, cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch khác đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch….
Ngay sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW và Chính phủ ban hành Nghị quyết số 103/NQ-CP ngày 06/10/2017 ban hành Chương trình Hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết, ngành Du lịch đã tham mưu Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ký ban hành Quyết định số 4215/QĐ-BVHTTDL ngày 09/11/2017 ban hành Kế hoạch Hành động của Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch thực hiện Nghị quyết số 103/NQ-CP của Chính phủ. Đồng thời, ngành Du lịch đã trình Lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hàng loạt các đề án trọng tâm triển khai thực hiện Nghị quyết như: Quyết định số 49/2018/QĐ-TTg ngày 12/12/2018 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập, phê duyệt Điều lệ của Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch; Đề án cơ cấu lại ngành du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn; Đề án tổng thể ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch giai đoạn 2018 - 2020, định hướng đến năm 2025; Đề án Nâng cao hiệu quả của công tác quảng bá, xúc tiến du lịch; Đề án tổ chức Hội chợ du lịch quốc tế Việt Nam; Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Chiến lược phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030…
Đặc biệt, ngày 22/01/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 147/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 với quan điểm “Phát triển du lịch bền vững và bao trùm, trên nền tảng tăng trưởng xanh, tối đa hóa sự đóng góp của du lịch cho các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc; quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh”. Trước đó, trong “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” (Ban hành kèm theo Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 08/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ) cũng xác định du lịch văn hóa là một trong những ngành công nghiệp văn hóa quan trọng mà Việt Nam có nhiều lợi thế, tiềm năng để phát triển, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới. Ngày 11/12/2020, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng ban hành Quyết định số 3767/QĐ - BVHTTDL phê duyệt Đề án xây dựng thương hiệu quốc gia về du lịch văn hóa, trong đó có khẳng định thương hiệu du lịch văn hóa Việt Nam được định vị dựa trên giá trị văn hóa đặc sắc, tập trung vào giá trị di sản và giá trị văn hóa ẩm thực, qua đó, hình thành hệ thống điểm đến, sản phẩm du lịch đặc trưng, có chất lượng, giá trị cao và được thị trường đón nhận tích cực[4].
Với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật kể trên đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng trong việc quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch, thể hiện quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Thực tế, thời gian qua, ngành Du lịch đã không ngừng nỗ lực, đa dạng hóa các sản phẩm du lịch để thu hút khách trong nước và quốc tế theo hướng tiến tới du lịch xanh. Theo đó, giai đoạn từ 2010 - 2019, du lịch Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc. Lượng khách du lịch quốc tế tăng từ 5 triệu lên 18 triệu (tăng 3,6 lần); đặc biệt giai đoạn 2015 - 2019 là giai đoạn tăng trưởng nhanh nhất, từ 7,9 triệu lên 18 triệu (tăng gần 2,3 lần); tốc độ tăng trưởng bình quân khách quốc tế đạt 22,7%/năm; lượng khách nội địa tăng từ 57 triệu lượt lên 85 triệu lượt (tăng 1,5 lần). Tổng thu từ du lịch tăng từ 355 nghìn tỷ đồng lên 755 nghìn tỷ đồng (tăng 2,1 lần). Năm 2019, toàn ngành đã đón hơn 18 triệu lượt khách quốc tế (tăng 16,2% so với năm 2018), phục vụ 85 triệu lượt khách nội địa, tổng thu đạt khoảng 755.000 tỷ đồng, đóng góp 9,2% GDP, tạo ra 2,5 triệu lao động trực tiếp và gián tiếp[5]. Trong giai đoạn 2020 - 2022, ngành Du lịch bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19 nhưng đã từng bước vượt khó, khắc phục những khó khăn, thách thức để trở thành một trong những ngành có tốc độ phục hồi nhanh nhất cả nước.
![]() |
Trước những thực trạng nêu trên, ngày 18/5/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 82/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh phục hồi, tăng tốc phát triển du lịch hiệu quả, bền vững. Nghị quyết đã góp phần tạo sự đồng thuận, nhất trí cao trong nhận thức và hành động của toàn ngành Du lịch, các ngành có liên quan, địa phương, doanh nghiệp và người dân để du lịch phát triển trọng tâm, trọng điểm, với phương châm “Sản phẩm đặc sắc - Dịch vụ chuyên nghiệp - Thủ tục thuận tiện - Giá cả cạnh tranh - Môi trường vệ sinh sạch, đẹp - Điểm đến an toàn, văn minh, thân thiện”, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, thuộc nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh du lịch hàng đầu thế giới. Tiếp đến, ngày 23/02/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chị thị số 08/CT-TTg về phát triển du lịch toàn diện, nhanh và bền vững.
Như vậy, giai đoạn Việt Nam mở cửa, phục hồi sau địa Covid-19 mang đậm dấu ấn của công tác xây dựng thế chế, chính sách cho ngành Du lịch để đáp ứng kỳ vọng trong giai đoạn phát triển mới, trong đó nổi bật là xu hướng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển bền vững, thân thiện với môi trường. Kết quả là: Năm 2023, tổng số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt 12,6 triệu lượt, khách du lịch nội địa đạt 108,2 triệu lượt, tổng thu từ khách du lịch đạt 678,3 nghìn tỷ đồng[6]. Năm 2024, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ước đạt 17,5 triệu lượt, tăng 38,9% so với cùng kỳ năm 2023; khách nội địa ước đạt 110 triệu lượt, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2023. Tổng thu từ khách du lịch ước đạt khoảng 840 nghìn tỷ đồng, tăng 23,8% so với cùng kỳ năm 2023[7]. Với những con số ấn tượng, có thể thấy, du lịch Việt Nam đã khởi sắc mạnh mẽ, liên tiếp trong nhiều năm Việt Nam luôn đạt được giải thưởng quốc tế và là điểm đến hấp dẫn của du khách khắp các châu lục. Đặc biệt, sau đại dịch Covid-19, xu hướng du lịch xanh, du lịch thân thiện với môi trường, gắn kết cộng đồng, bảo tồn các giá trị văn hóa được du khách đặc biệt quan tâm. Việt Nam trở thành điểm đến của du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm…
![]() |
Mặc dù, ngành Du lịch Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, tuy nhiên, vẫn phải đối diện với không ít khó khăn, thách thức, đó là: (i) Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, đặc biệt là cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư; (ii) Nhu cầu du lịch thế giới đang thay đổi, hướng tới những giá trị mới được thiết lập trên cơ sở giá trị văn hóa truyền thống (tính độc đáo, tính nguyên bản), giá trị tự nhiên (tính nguyên sơ, nguyên vẹn), giá trị sáng tạo và công nghệ cao (tính hiện đại, tiện nghi); (iii) Tác động bất lợi từ những bất ổn chính trị, thiên tai, kinh tế; (iv) Cạnh tranh trong khu vực, quốc tế ngày càng gay gắt; (v) Biến đổi khí hậu, hiện tượng thời tiết cực đoan, tác động ngày càng lớn đến lĩnh vực du lịch[8].
Đặc biệt, về mặt các chính sách và hoạt động quản lý của nhà nước vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: Chính sách về thu hút đầu tư, phát triển du lịch đảm bảo tính bền vững và liên kết đa ngành chưa đột phá. Chính sách xúc tiến du lịch chưa được kịp thời điều chỉnh trước những yêu cầu về du lịch bền vững trên thế giới và khu vực. Chính sách thị thực dành cho khách du lịch còn có điểm chưa phù hợp, về thời hạn tạm trú còn ngắn. Hiệu quả hợp tác giữa các ngành liên quan để bảo đảm quản lý tài nguyên môi trường trong du lịch đang gặp khó khăn. Các doanh nghiệp hoạt động độc lập, không có sự kết nối chặt chẽ với chính sách quản lý điểm đến, tạo ra sự không đồng nhất trong ngành Du lịch. Ngoài ra, nhận thức của doanh nghiệp và người dân về phát triển du lịch theo hướng bền vững còn hạn chế. Ý thức tôn tạo và bảo vệ cảnh quan môi trường du lịch chưa được nâng cao đã gây trở ngại cho sự phát triển bền vững của ngành Du lịch. Trên thực tế, người dân sinh sống trong khu vực du lịch thường xâm phạm đến các tài nguyên du lịch mà không ý thức được hết ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và những lợi ích lâu dài cho cộng đồng[9]. Việc thanh tra, kiểm tra hoạt động du lịch còn nảy sinh nhiều bất cập, nhiều nơi bị buông lỏng, thiếu sự quản lý thống nhất, đồng bộ và còn tồn tại chồng chéo giữa quản lý ngành và quản lý lãnh thổ giữa các ngành, các cấp; chưa phân định rõ giữa quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh. Việc cải cách thủ tục hành chính còn chậm, nhiều cấp, nhiều giấy phép, gây phiền hà cho doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch. Các doanh nghiệp du lịch xanh thân thiện với môi trường còn chưa thực sự được tiếp cận với nhiều ưu đãi từ chính sách của Nhà nước…
3. Một số giải pháp cải cách thể chế, chính sách quản lý và phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam
Để khắc phục những hạn chế nêu trên và thúc đẩy ngành Du lịch Việt Nam phát triển theo hướng bền vững, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể:
Một là, nghiên cứu đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW và Luật Du lịch năm 2017 để nhìn nhận những bất cập, khó khăn, vướng mắc, từ đó, tiếp tục xây dựng các chủ trương, cơ chế chính sách nhằm tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, tạo hành lang pháp lý để phát triển du lịch bền vững, thật sự phát triển.
Hai là, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Luật Du lịch năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành phù hợp với tình hình thực tiễn theo hướng: (i) Khuyến khích các doanh nghiệp du lịch ứng dụng công nghệ số, công nghệ xanh, sạch trong kinh doanh du lịch, phát triển du lịch thông minh; (ii) Khuyến khích các nhà đầu tư, doanh nghiệp đầu tư du lịch có trách nhiệm theo hướng đầu tư xanh, bền vững, tạo ra các sản phẩm, dịch vụ du lịch xanh để thúc đẩy xu hướng tiêu dùng du lịch xanh; (iii) Phát triển đa dạng các loại hình du lịch xanh như du lịch sinh thái, du lịch sinh thái nông nghiệp, du lịch cộng đồng, du lịch khám phá, trải nghiệm các giá trị văn hóa, làng nghề truyền thống, nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe… Trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật và các văn bản hướng dẫn cần lắng nghe, tiếp thu ý kiến từ phía doanh nghiệp, cộng đồng du lịch, các địa phương. Cần có nhận định đúng đắn về vai trò của ngành Du lịch, có cách tiếp cận, cơ chế, chính sách, phương thức quản lý phát triển du lịch phù hợp với bối cảnh đất nước ta đang vươn mình bước vào kỷ nguyên mới.
Ba là, xây dựng cơ chế, khung pháp lý rõ ràng, minh bạch để các doanh nghiệp du lịch và các cộng đồng địa phương dễ dàng tiếp cận; đồng thời đề xuất các chính sách đặc thù, ưu đãi các doanh nghiệp du lịch xanh (tạo ra các sản phẩm du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm và du lịch nông nghiệp, du lịch y tế, du lịch hội nghị…), bao gồm các ưu đãi về thế, hỗ trợ vay vốn, hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn… để giúp doanh nghiệp và cộng đồng địa phương triển khai các dự án du lịch bền vững hiệu quả. Bên cạnh đó, cũng cần có những chính sách ưu đãi và hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư vào giao thông xanh như xe buýt điện, xe đạp, tàu điện ngầm và các phương tiện giao thông công cộng xanh khác nhằm kết nối các khu du lịch, tạo điều kiện phát triển hạ tầng du lịch.
Bốn là, xây dựng chiến lược, quy hoạch dài hạn với mục tiêu cụ thể và sự tham gia, phối hợp liên ngành. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành. Vì vậy, cần thiết xây dựng các kế hoạch triển khai Chiến lược phát triển du lịch bền vững một cách cụ thể, đề cập rõ vai trò và trách nhiệm của các bên liên quan bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp du lịch và cộng đồng địa phương. Bên cạnh đó, cần có chính sách xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch bền vững trên phạm vi cả nước. Trên cơ sở quy hoạch của cả nước, các địa phương cần tiếp tục rà soát, lập quy hoạch chi tiết từng khu, điểm, cụm du lịch trọng điểm, trong đó chú trọng các yếu tố bền vững. Trong chính sách quy hoạch cần bảo đảm nguyên tắc đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, nhất là giá trị các di sản, bản sắc văn hóa dân tộc và những sắc thái văn hóa đa dạng của cộng đồng dân cư các địa phương. Bảo vệ môi trường phải được các cơ quan quản lý các cấp coi trọng và trở thành yếu tố bắt buộc trong chính sách quy hoạch phát triển du lịch ở mỗi địa phương.
Năm là, cần có các chính sách nhằm đa dạng hóa sản phẩm du lịch, tăng sức hấp dẫn với du khách, các địa phương quan tâm khai thác sản phẩm thuộc các loại hình du lịch có thế mạnh đặc thù. Bên cạnh việc khai thác sản phẩm du lịch hiện có, các thành phố tập trung phát triển thêm sản phẩm du lịch văn hóa - lịch sử, du lịch ẩm thực, du lịch mua sắm, du lịch nông nghiệp sinh thái và đường thủy, du lịch hội nghị - hội thảo (MICE), du lịch y tế…
Sáu là, hoạt động du lịch là một chuỗi các dịch vụ có gắn kết như: Giao thông hàng không, đường bộ, đường thủy; cơ sở dịch vụ như lưu trú, ăn uống, tham quan, vui chơi giải trí. Đồng thời, hoạt động du lịch tại một điểm đến còn có sự gắn kết, hỗ trợ của người dân địa phương. Vì vậy, cần có giải pháp để liên kết các chuỗi dịch vụ với nhau, cụ thể[10]:
(i) Ở cấp trung ương và địa phương, hiện nay đã có Ban Chỉ đạo du lịch gồm các cơ quan quản lý ở các ngành tham gia, tức là chỉ bao gồm khu vực công, tuy nhiên, mô hình này cần phải có một số điểm cải tiến cho phù hợp với tình hình hiện nay. Ví dụ, cần có thêm đại diện doanh nghiệp hoặc Hiệp hội Du lịch, thậm chí là đại diện cộng đồng địa phương để sức mạnh tổng hợp và sự đồng thuận, đóng góp của tất cả các bên liên quan. Hơn nữa, cần nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo du lịch để kịp thời lắng nghe những khó khăn và rào cản mà khu vực doanh nghiệp đang gặp, đưa ra được quyết sách kịp thời, đáp ứng được vấn đề cấp bách của ngành, bao gồm cả dịch vụ, giá cả, quy tắc ứng xử, an toàn tính mạng và tài sản của khác, giao thông, môi trường, an ninh…
(ii) Ở cấp địa phương, nên thành lập cơ quan quản lý điểm đến với sự tham gia của các ngành liên quan ở địa phương và các đối tác khác nhau (cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng người dân địa phương). Việc tăng cường quản lý điểm đến cần có hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan quản lý ở cấp quốc gia (Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) để đưa ra hướng dẫn chi tiết cho các địa phương là hết sức cần thiết. Theo đó, nên thành lập cơ quan quản lý điểm đến ở các địa phương trọng điểm về du lịch trước, để tạo ra các mô hình điển hình, sau đó điều chỉnh và nhân rộng ra các điểm du lịch khác trong phạm vi cả nước.
Bảy là, cần xây dựng thể chế tăng cường hoạt động quản lý nhà nước bảo đảm phát triển du lịch theo hướng bền vững, bao gồm[11]: Thực hiện các hoạt động truyền thông, phổ biến pháp luật và chính sách phát triển du lịch bền vững, tăng cường việc kiểm tra các hoạt động kinh doanh du lịch nhằm quản lý và bảo vệ tài nguyên môi trường. Cần tăng cường công tác phối hợp giữa các ngành, cơ quan quản lý và các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực du lịch cùng chung tay bảo vệ môi trường. Đồng thời, việc đánh giá và đo lường mức độ ảnh hưởng do hoạt động du lịch gây ra đối với tài nguyên và môi trường là một vấn đề quan trọng. Việc hợp tác chặt chẽ quản lý du lịch cùng các ngành liên quan nhằm giảm thiểu sự cố và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường. Kiểm soát chặt chẽ và có các biện pháp, chế tài phù hợp đối với các hoạt động kinh tế trong các lĩnh vực khác (xây dựng, giao thông, công nghiệp, nông nghiệp…) có gây hại đến môi trường tại các khu, điểm du lịch. Nghiên cứu, xác định giới hạn áp lực của hoạt động du lịch lên tài nguyên, môi trường; theo dõi, kiểm tra thường xuyên việc sử dụng tài nguyên, tránh sử dụng quá mức gây nguy cơ cạn kiệt, suy giảm hoặc xuống cấp nghiêm trọng. Phối hợp kịp thời giữa cơ quan quản lý chuyên ngành về du lịch với các cơ quan, các ngành chức năng liên quan trong việc kịp thời có chế tài xử lý và khắc phục sự cố, tình trạng suy thoái, xuống cấp của tài nguyên du lịch.
Tám là, cần có cơ chế thúc đẩy việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu du lịch quốc gia. Hệ thống này bao gồm các thông tin về doanh nghiệp lữ hành, cơ sở lưu trú, hướng dẫn viên, điểm đến du lịch và các dịch vụ liên quan. Hệ thống này giúp quản lý thông tin du lịch một cách hiệu quả, đồng bộ, hỗ trợ công tác quản lý, điều hành và hoạch định chính sách phát triển du lịch bền vững. Hơn nữa, một nền tảng số dùng chung trong toàn ngành Du lịch sẽ giúp hỗ trợ công tác quản lý du lịch từ Trung ương đến cơ sở; hỗ trợ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và nâng cao trải nghiệm cho khách du lịch. Cơ chế này là hoàn toàn phù hợp với Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Chín là, cần có chính sách thu hút, đào tạo nguồn nhân lực. Hiện nay, chúng ta đang thiếu nguồn nhân lực có chất lượng trong quản lý ngành Du lịch, nhân lực, ứng dụng khoa học công nghệ. Rà soát, bổ sung cơ chế, chính sách thậm chí cụ thể hóa thành các văn bản pháp luật nhằm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề và thực hành nghiệp vụ du lịch nhân lực hiện có; ứng dụng khoa học công nghệ trong bảo vệ môi trường, trong quản lý và phát triển du lịch, trong đào tạo nguồn nhân lực cần quan tâm đến yếu tố văn hóa của nguồn nhân lực. Hoàn thiện pháp luật và chính sách liên quan đến tuyển dụng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch. Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích các tổ chức phi Chính phủ và doanh nghiệp liên kết với các cơ sở đào tạo nhằm tổ chức đào tạo ngắn hạn. Tăng cường công tác giáo dục cộng đồng và mở các khóa bồi dưỡng cập nhật kiến thức về du lịch bền vững phụ vụ cộng đồng địa phương.
Mười là, cần rà soát, đánh giá, hoàn thiện cơ chế quản lý, vận hành và phát huy tốt hơn nữa vai trò của Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch trong tổ chức triển khai các kế hoạch xúc tiến, quảng bá và hỗ trợ phát triển du lịch để trình cấp có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung phù hợp tình hình mới. Cùng với đó là cơ chế hỗ trợ các địa phương nghiên cứu thị trường, không sao chép mô hình của các địa phương với nhau mà khuyến khích, tạo điều kiện để các địa phương, khu du lịch trọng điểm quốc gia mời các chuyên gia quốc tế có kinh nghiệm đến nghiên cứu thị trường, giá trị di sản văn hóa, tài nguyên thiên nhiên của từng địa phương... để có quy hoạch, chiến lược phát triển du lịch bền vững theo điểm mạnh của từng địa phương. Ngoài ra, cần xây dựng chiến lược, chương trình và hoạt động xúc tiến và quảng bá du lịch cho các sản phẩm du lịch thân thiện với thiên nhiên, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa. Tăng cường quan hệ hợp tác giữa các địa phương, cộng đồng du lịch với các tổ chức du lịch nội địa và quốc tế nhằm nâng cao hoạt động quảng bá du lịch. Đầu tư nguồn kinh phí phù hợp vào hoạt động xúc tiến và quảng bá du lịch mang đến hình ảnh du lịch bền vững tích cực có trách nhiệm.
Mười một là, tiếp tục nghiên cứu xây dựng mới và hoàn thiện các nội quy, quy chế, quy định về bảo vệ môi trường tại các điểm du lịch; các bộ tiêu chí, quy tắc, tiêu chuẩn liên quan đến hoạt động quản lý du lịch như: Bộ tiêu chí đánh giá các khu du lịch, điểm du lịch; Bộ tiêu chí đánh giá các công ty du lịch xanh, sản phẩm du lịch xanh; Bộ Quy tắc ứng xử văn minh, bảo vệ môi trường trong lĩnh vực du lịch; Bộ tiêu chí nhãn Du lịch bền vững; Tiêu chuẩn toàn cầu về lữ hành và du lịch bền vững (Tiêu chí GSTC)… góp phần hoàn thiện thể chế quản lý du lịch bền vững ở Việt Nam hiện nay.
Kết luận:
Có thể thấy, ngành Du lịch luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước ta. Trong mỗi thời kỳ khác nhau, Đảng, Nhà nước luôn có những quyết sách để tháo gỡ khó khăn, tạo đột phá cho du lịch phát triển. Những văn bản chỉ đạo kịp thời của Đảng, Nhà nước đã khẳng định mạnh mẽ quyết tâm của Việt Nam nhằm đưa du lịch phát triển thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn như mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị. Trong bối cảnh công nghệ số phát triển như hiện nay, việc cải cách các thể chế, chính sách là hết sức cấp bách, đặc biệt là việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong hoạt động quản lý nhà nước về du lịch nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, thúc đẩy du lịch bền vững, giảm áp lự lên môi trường và bảo tồn tài nguyên cho thế hệ mai sau./.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn;
2. Luật Du lịch năm 2017;
3. ThS. Nguyễn Thị Hương, Phát triển du lịch bền vững - mục tiêu, nguyên tắc, https://nongthonvaphattrien.vn/phat-trien-du-lich-ben-vung-muc-tieu-nguyen-tac-a7551.html, truy cập ngày 25/4/2025;
4. TS. Nguyễn Trùng Khánh, Phát triển du lịch gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, bảo vệ môi trường, thúc đẩy sự phát triển bền vững trong bối cảnh mới, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/828175/phat-trien-du-lich-gan-voi-bao-ton%2C-phat-huy-cac-gia-tri-van-hoa%2C-bao-ve-moi-truong%2C-thuc-day-su-phat-trien-ben-vung-trong-boi-canh-moi.aspx, truy cập ngày 25/4/2025;
5. Đăng Nguyên, Du lịch Việt Nam và mục tiêu 18 triệu lượt khách quốc tế: Tạo động lực để “về đích”, https://bvhttdl.gov.vn/du-lich-viet-nam-va-muc-tieu-don-18-trieu-luot-khach-quoc-te-bai-1-tao-dong-luc-de-ve-dich-20240313170330762.htm, truy cập ngày 25/4/2025;
6. Xuân Trường, 2024 - Năm khởi sắc của du lịch Việt Nam, https://bvhttdl.gov.vn/2024-nam-khoi-sac-cua-du-lich-viet-nam-20250102081702859.htm, truy cập ngày 25/4/2025;
7. Thủ tướng chỉ thị phát triển du lịch tòa diện, nhanh và bền vững, https://baochinhphu.vn/thu-tuong-chi-thi-phat-trien-du-lich-toan-dien-nhanh-va-ben-vung-102240223171257899.htm, truy cập ngày 25/4/2025;
8. Thân Trọng Ngọc Trâm, Chính sách về phát triển du lịch bền vững tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, https://tapchicongthuong.vn/chinh-sach-ve-phat-trien-du-lich-ben-vung-tai-viet-nam-trong-boi-canh-hoi-nhap-quoc-te-123551.htm, truy cập ngày 25/4/2025;
9. Thu Phương, Nghĩa Đức, PGS.TS - ĐBQH Bùi Hoài Sơn: Cần Vận hành, phát huy tốt hơn Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch, https://quochoi.vn/pages/tim-kiem.aspx?ItemID=82227, truy cập ngày 25/4/2025.
[1] Khoản 14 Điều 3 Luật Du lịch năm 2017.
[2] ThS. Nguyễn Thị Hương, Phát triển du lịch bền vững - mục tiêu, nguyên tắc, https://nongthonvaphattrien.vn/phat-trien-du-lich-ben-vung-muc-tieu-nguyen-tac-a7551.html, truy cập ngày 25/4/2025.
[3] Điều 4 Luật Du lịch năm 2017.
[4] TS. Nguyễn Trùng Khánh, Phát triển du lịch gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, bảo vệ môi trường, thúc đẩy sự phát triển bền vững trong bối cảnh mới, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/828175/phat-trien-du-lich-gan-voi-bao-ton%2C-phat-huy-cac-gia-tri-van-hoa%2C-bao-ve-moi-truong%2C-thuc-day-su-phat-trien-ben-vung-trong-boi-canh-moi.aspx, truy cập ngày 25/4/2025.
[5] TS. Nguyễn Trùng Khánh, Tlđd.
[6] Đăng Nguyên, Du lịch Việt Nam và mục tiêu 18 triệu lượt khách quốc tế: Tạo động lực để “về đích”, https://bvhttdl.gov.vn/du-lich-viet-nam-va-muc-tieu-don-18-trieu-luot-khach-quoc-te-bai-1-tao-dong-luc-de-ve-dich-20240313170330762.htm, truy cập ngày 25/4/2025.
[7] Xuân Trường, 2024 - Năm khởi sắc của du lịch Việt Nam, https://bvhttdl.gov.vn/2024-nam-khoi-sac-cua-du-lich-viet-nam-20250102081702859.htm, truy cập ngày 25/4/2025.
[8] Thủ tướng chỉ thị phát triển du lịch tòa diện, nhanh và bền vững, https://baochinhphu.vn/thu-tuong-chi-thi-phat-trien-du-lich-toan-dien-nhanh-va-ben-vung-102240223171257899.htm, truy cập ngày 25/4/2025.
[9] Thân Trọng Ngọc Trâm, Chính sách về phát triển du lịch bền vững tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, https://tapchicongthuong.vn/chinh-sach-ve-phat-trien-du-lich-ben-vung-tai-viet-nam-trong-boi-canh-hoi-nhap-quoc-te-123551.htm, truy cập ngày 25/4/2025.
[10] Thu Phương, Nghĩa Đức, PGS.TS - ĐBQH Bùi Hoài Sơn: Cần Vận hành, phát huy tốt hơn Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch, https://quochoi.vn/pages/tim-kiem.aspx?ItemID=82227, truy cập ngày 25/4/2025.
[11] Thân Trọng Ngọc Trâm, Tlđd.