Thứ sáu 27/06/2025 10:33
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Mô hình tổ chức Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh

HĐND phải nghiêng về tính đại diện. Xét về bản chất, tính đại diện của HĐND bắt nguồn từ bản chất dân chủ nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

1. Đôi nét về mô hình thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương

Thành phố Thủ Đức được xác định là một vùng động lực phát triển mới của Thành phố Hồ Chí Minh, bởi khu vực này đáp ứng đầy đủ các yếu tố để phát triển thành một khu đô thị đặc thù đầu tiên của Thành phố Hồ Chí Minh. Đó là đô thị thông minh, đô thị sáng tạo, có tính tương tác cao, sẽ là nơi cung cấp các sản phẩm hàm lượng khoa học công nghệ cao, nơi ươm mầm khởi nghiệp; là trục động lực về giáo dục đào tạo với cụm Đại học Quốc gia và hàng loạt trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh, tập trung tại làng Đại học Thủ Đức. Nơi đây sẽ cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao với hơn 100.000 sinh viên và hơn 2.000 giảng viên có trình độ Tiến sĩ[1].

Hành lang pháp lý về đơn vị hành chính thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương đã được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 110 Hiến pháp năm 2013 và khoản 2 Điều 2 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). Các tiêu chuẩn thành lập thành phố đã được quy định tại Điều 5 của Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính và việc Ủy ban nhân dân (UBND) Thành phố Hồ Chí Minh xin ý kiến của Bộ Xây dựng về đề xuất sáp nhập quận 2, quận 9 và quận Thủ Đức, thành lập thành phố trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp với quy định khuyến khích việc sắp xếp các đơn vị hành chính không thuộc diện quy định để giảm số lượng đơn vị hành chính phù hợp với quy định của Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14 ngày 12/3/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019 - 2021. Ngoài ra, theo Sở Nội vụ, việc quy hoạch khu đô thị sáng tạo, tương tác phía đông thành phố cũng phù hợp với định hướng phát triển không gian vùng Thành phố Hồ Chí Minh được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 2076/QĐ-TTg ngày 22/12/2017 về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 và các nhiệm vụ, giải pháp được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 950/QĐ-TTg ngày 01/08/2018 về phê duyệt Đề án Phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025 và định hướng đến năm 2030[2]. Đặc biệt, ngày 16/11/2020, với 420/428 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 131/2020/QH14 về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh, theo đó chính quyền địa phương ở Thành phố Hồ Chí Minh gồm Hội đồng nhân dân (HĐND) Thành phố và UBND Thành phố; Chính quyền địa phương ở quận tại Thành phố là UBND quận; UBND quận là cơ quan hành chính nhà nước ở quận, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Nghị quyết này và theo phân cấp, ủy quyền của UBND, Chủ tịch UBND Thành phố[3].

Theo đó, tại Nghị quyết số 111/NQ-UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, được thông qua ngày 09/12/2020, Thành phố Thủ Đức được thành lập trên cơ sở nhập toàn bộ 49,79 km2 diện tích tự nhiên, 171.311 người của Quận 2; toàn bộ 113,97 km2 diện tích tự nhiên, 310.107 người của Quận 9 và toàn bộ 47,80 km2 diện tích tự nhiên, 532.377 người của quận Thủ Đức. Sau khi thành lập, thành phố Thủ Đức có 211,56 km2 diện tích tự nhiên và quy mô dân số 1.013.795 người. Thành phố Thủ Đức sau khi thành lập giáp Quận 1, Quận 4, Quận 7, Quận 12, quận Bình Thạnh; tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bình Dương[4]. Như vậy, kể từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành (01/01/2021), Thành phố Hồ Chí Minh có 22 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 16 quận, 05 huyện và 01 thành phố; 312 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 58 xã, 249 phường và 05 thị trấn[5].

Từ ngày 01/7/2021, Thành phố Hồ Chí Minh chính thức hoạt động theo hình thức chính quyền đô thị[6]. Theo đó, mô hình chính quyền Thành phố được tổ chức như sau: Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố thuộc Thành phố Hồ Chí Minh và các đơn vị huyện, xã, thị trấn là cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND; ở đơn vị quận và phường là UBND quận, UBND phường. UBND quận, phường là cơ quan hành chính nhà nước ở quận, phường, làm việc theo chế độ thủ trưởng. Ở quận và phường không tổ chức HĐND, quyền đại diện của người dân tại đây tiếp tục được duy trì và phát huy thông qua các kênh như: Đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội; Thường trực HĐND Thành phố, các ban, tổ đại biểu, đại biểu HĐND Thành phố, cấp ủy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội các cấp.

Như vậy, sau khi thành lập thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ không thay đổi về diện tích tự nhiên, quy mô dân số, chỉ thay đổi về cơ cấu, số lượng đơn vị hành chính cấp huyện: giảm 03 quận (2, 9, Thủ Đức), tăng 01 thành phố (thành phố Thủ Đức) và thành phố Thủ Đức sẽ giảm 02 phường (thuộc Quận 2 cũ), còn lại 34 phường, là mô hình chính quyền cấp huyện gồm có HĐND và UBND thành phố Thủ Đức. Mô hình tổ chức chính quyền phường của thành phố Thủ Đức không tổ chức HĐND ở quận và phường, chỉ có UBND quận và UBND phường là cơ quan hành chính làm việc theo chế độ thủ trưởng[7]. Theo đó, địa vị pháp lý của mỗi cấp chính quyền là một pháp nhân công quyền, bảo đảm nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền theo nội dung được phân cấp; phân định rõ 03 loại nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền gồm: Nhiệm vụ chung 02 cấp cùng thực hiện, nhiệm vụ riêng của mỗi cấp và nhiệm vụ cấp dưới thực hiện theo cơ chế ủy nhiệm của cấp trên[8].

2. Thực trạng tổ chức chính quyền thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh và định hướng hoàn thiện

2.1. Hội đồng nhân dân thành phố Thủ Đức


Theo quy định của Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16/11/2020 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh sẽ không tổ chức HĐND ở các quận nhưng ở các huyện và thành phố thuộc thành phố vẫn tổ chức HĐND[9]. Vấn đề này xuất phát từ nguyên nhân, HĐND các quận thì không thể ra những nghị quyết để quyết định những vấn đề quan trọng trong quận và quyết định ngân sách của quận một cách độc lập so với các nghị quyết của HĐND Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, việc thành lập các HĐND quận là không cần thiết sẽ gây ra tình trạng cồng kềnh bộ máy, lãng phí, nhiều tầng nấc, không phù hợp với yêu cầu năng động, sáng tạo, nhanh nhạy trong việc triển khai thi hành các quyết sách của một chính quyền đô thị. Trong khi đó, HĐND các thành phố trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh có thẩm quyền quyết định ngân sách và những vấn đề quan trọng khác của địa phương một cách độc lập và đặc thù so với các quyết sách của HĐND Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nhóm tác giả cho rằng, Nghị quyết này chỉ quy định về việc thành lập HĐND thành phố trực thuộc thành phố và Điều 6 quy định các HĐND thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương, quy định khác của pháp luật có liên quan và thực hiện thêm các nhiệm vụ, quyền hạn đặc thù là chưa đủ vì chưa đề cập đến cơ cấu tổ chức, yếu tố con người để giải quyết một khối lượng công việc xứng tầm với HĐND của một thành phố sáng tạo, cụ thể là:

Thứ nhất, về tính chất pháp lý chủ đạo của Hội đồng nhân dân.

HĐND phải nghiêng về tính đại diện. Xét về bản chất, tính đại diện của HĐND bắt nguồn từ bản chất dân chủ nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đây là tính chất đặc trưng và quan trọng nhất của HĐND; là yếu tố tiên quyết, quyết định các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND. Khi tính đại diện trở thành tính chất đặc trưng, quan trọng của HĐND thì giám sát sẽ trở thành chức năng chủ đạo của HĐND, do đó, HĐND phải bổ sung tăng cường các nhiệm vụ, quyền hạn để giúp HĐND nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tại địa phương[10].

Thứ hai, về cách thức bầu cử Hội đồng nhân dân và cơ cấu đại biểu.

Ở các “siêu đô thị” đặc thù như Thành phố Hồ Chí Minh hay thành phố Thủ Đức, không nên dùng chung một điều kiện, tiêu chuẩn cơ cấu đại biểu HĐND như các địa phương khác. Việc xác định dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND ở mỗi đơn vị hành chính chủ yếu được dựa trên các tiêu chí nữ, dân tộc, ngoài Đảng, tái cử… là chưa phù hợp với điều kiện, tiêu chuẩn đại biểu HĐND của thành phố thuộc thành phố, vì vậy chúng ta cần phải đặt vấn đề cơ cấu trong mối quan hệ với tính đại diện[11]. Tại các thành phố thuộc thành phố như Thủ Đức, cần phải hiểu khái niệm đại diện theo hướng “đại diện trí tuệ”, đại diện theo nghề nghiệp, đại điện theo vị trí việc làm chứ không thuần túy là đại diện theo con người. Phương án khả thi và phù hợp nhất trong điều kiện hiện nay, đối với đô thị nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng là cần phải từng bước mở rộng dân chủ trực tiếp, đồng thời phải thay đổi, hoàn thiện cơ chế dân chủ đại diện[12]. Để bảo đảm điều đó, người dân phải quyết định ai là người lãnh đạo của họ. Nếu không có các cuộc bầu cử tự do và công bằng, sẽ không thể nào có một xã hội dân chủ, và nếu các quan chức không có trách nhiệm giải trình thường xuyên và liên tục đối với toàn bộ cử tri, thực tế các quyền khác cũng sẽ không được bảo đảm[13].

Thứ ba, về số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân và tỷ lệ đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách.

Theo quy định của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm[14] thì thành phố Thủ Đức (được xác định là đơn vị hành chính cấp huyện) dù có hơn 1 triệu dân thì cũng chỉ bầu tối đa 35 đại biểu HĐND. Đây rõ ràng là một sự cào bằng bất hợp lý, vừa không bảo đảm tính đại diện cho số lượng dân cư ở địa phương, vừa không thể hoàn tốt nhiệm vụ, quyền hạn được giao trong bối cảnh không tổ chức HĐND các phường và gây khó khăn cho HĐND khi thực hiện chức năng giám sát. Do đó, nhóm tác giả đề nghị tăng số lượng đại biểu HĐND thành phố Thủ Đức (lên 90 đại biểu) để bảo đảm được tính đại diện cho người dân và phù hợp với quy mô, cơ cấu việc làm, nghề nghiệp, trí tuệ… của thành phố. Mặt khác, Luật Tổ chức chính quyền địa phương hiện hành chỉ quy định các chức danh lãnh đạo chuyên trách (Thường trực HĐND và các Ban HĐND), về số lượng đại biểu HĐND các cấp hoạt động chuyên trách lại không quy định. Chính vì vậy, khi không tổ chức HĐND phường, ngoài việc cân chỉnh lại số lượng đại biểu HĐND thành phố Thủ Đức theo hướng tăng, đồng thời phải tăng tỷ lệ đại biểu chuyên trách lên ít nhất 30% trên tổng số đại biểu HĐND thành phố. Mặc dù không tổ chức HĐND ở các phường nhưng mối liên hệ giữa HĐND thành phố với nhân dân, với từng đại biểu đến cử tri không những không xa hơn mà gần hơn[15].

Thứ tư, về số lượng Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân.

Theo quy định của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương thì HĐND thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương chỉ có một Phó Chủ tịch HĐND (giống với HĐND huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh). Nhóm tác giả cho rằng cần quy định số lượng đại biểu HĐND thành phố Thủ Đức là 02 hoặc chí ít pháp luật nên quy định theo hướng: nếu Chủ tịch HĐND là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách thì số lượng Phó Chủ tịch HĐND là 01, nếu Chủ tịch HĐND là đại biểu HĐND hoạt động kiêm nhiệm thì số lượng Phó Chủ tịch HĐND là 02[16]. Với việc bổ sung thêm nhiệm vụ, quyền hạn cho HĐND thành phố thuộc thành phố, song hành với điều này chúng tôi thiết nghĩ cần tăng số lượng thành viên chuyên trách của Thường trực HĐND.

Thứ năm, về các Ban của Hội đồng nhân dân.

Theo quy định tại Điều 53 Luật Tổ chức chính quyền địa phương hiện hành thì HĐND thị xã, thành phố thuộc tỉnh và thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương được thành lập 2 ban là Ban pháp chế và Ban kinh tế - xã hội. Nhóm tác giả cho rằng, để bảo đảm hiệu quả hoạt động của HĐND nhất là hoạt động giám sát trong bối cảnh không tổ chức HĐND phường và xứng tầm với một đô thị sáng tạo thì HĐND thành phố Thủ Đức nên thành lập 04 ban sau đây: Ban pháp chế, Ban kinh tế, Ban văn hoá - xã hội và Ban đô thị. Bởi lẽ, trên thực tế, với quy mô diện tích rộng lớn và dân số chiếm 1/10 dân số của cả Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Thủ Đức còn thực hiện các chiến lược phát triển để trở thành một cực tăng trưởng mới với sứ mệnh thúc đẩy kinh tế cho toàn bộ khu vực phía Nam góp phần hình thành chuỗi giá trị gia tăng trên nền tảng công nghệ cao, hạ tầng kỹ thuật hiện đại, từ khâu sáng tạo tri thức mới, đào tạo nhân lực, thí nghiệm các ý tưởng mới, cung cấp các giải pháp và nguồn nhân lực... Do vậy, HĐND thành phố phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm ở nhiều lĩnh vực và trên phạm vi rộng lớn so với HĐND các quận, huyện, thị xã hay thành phố thuộc tỉnh. Việc quy định chỉ được thành lập hai ban nêu trên là chưa đủ và chưa phù hợp với những lĩnh vực mới mẻ, quan trọng ở địa phương cần HĐND quyết định.

2.2. Ủy ban nhân dân thành phố Thủ Đức

Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16/11/2020 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh chỉ quy định thêm cho UBND và Chủ tịch UBND thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương một số nhiệm vụ, quyền hạn riêng là chưa đủ khung pháp lý cần thiết cho việc điều hành, quản lý thành phố Thủ Đức một cách hiệu quả vì chưa đề cập đến cơ cấu tổ chức, yếu tố con người. Cụ thể là:

Thứ nhất, về chế độ hoạt động Ủy ban nhân dân thành phố Thủ Đức.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, cũng giống như UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh khác, UBND thành phố Thủ Đức hoạt động theo chế độ tập thể lãnh đạo kết hợp với đề cao vai trò cá nhân người đứng đầu. Tuy nhiên, nếu áp dụng và duy trì chế độ hoạt động này cho UBND thành phố Thủ Đức, thì việc phát triển mang tính đột phá mà chính quyền thành phố thuộc thành phố có thể tạo ra sẽ khó thành hiện thực. Bởi lẽ, dù có tăng cường thẩm quyền cho người đứng đầu, UBND thành phố Thủ Đức vẫn là một thiết chế quản lý mang tính tập thể, quyết định các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo phương thức làm việc tập thể là chủ đạo. Trong khi đó, quản lý nhà nước ở thành phố Thủ Đức cần phải thích ứng kịp thời với tốc độ phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ của một địa phương vốn được định hướng để trở thành một “khu đô thị sáng tạo, tương tác cao”, “khu kinh tế động lực mới của Thành phố Hồ Chí Minh trong tương lai”, “cực tăng trưởng mạnh mẽ nhất, lớn nhất của thành phố và khu vực”[17]...; cần phải có đủ sự chủ động và sự độc lập cần thiết trong việc đề ra các quyết sách táo bạo, mới mẻ; cần có những chỉ đạo, điều hành quyết đoán và dứt khoát... Nghĩa là, cần đến một chế độ hoạt động mà ở đó đòi hỏi dấu ấn cá nhân mạnh mẽ của “người đứng mũi chịu sào”, bảo đảm sự minh bạch trong việc quy kết trách nhiệm và luôn xác định được địa chỉ chịu trách nhiệm cuối cùng, đó chính là chế độ thủ trưởng. Trên thực tế, Chủ tịch UBND có vai trò và ảnh hưởng rất lớn. UBND trên danh nghĩa làm việc theo chế độ tập thể lãnh đạo, thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của UBND. Nhưng UBND chỉ họp định kỳ mỗi tháng một lần, các phiên họp bất thường chỉ được triệu tập trong những trường hợp nhất định theo quyết định của Chủ tịch UBND, theo yêu cầu của Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp hoặc theo yêu cầu của ít nhất một phần ba tổng số thành viên UBND[18]. Vì vậy, vai trò của Chủ tịch UBND gắn liền với sự điều hành thường xuyên, trực tiếp các hoạt động của UBND. Càng điều hành thường xuyên, trực tiếp thì tầm ảnh hưởng của Chủ tịch UBND ở địa phương càng lớn. Ngoài ra, Chủ tịch UBND còn giữ tiếng nói chi phối, quyết định trong Thường trực UBND, trong tập thể UBND, là “linh hồn” của UBND. Về lý thuyết, tại phiên họp của UBND, với phương thức “thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số”, các thành viên của UBND và Chủ tịch UBND bình đẳng với nhau về lá phiếu nhưng trên thực tế người đứng đầu các cơ quan chuyên môn đồng thời là thành viên UBND đều do Chủ tịch UBND bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, cách chức, kỷ luật nên thật không dễ dàng để lá phiếu của họ hoàn toàn độc lập với lá phiếu của Chủ tịch UBND[19]. Do đó, chế độ thủ trưởng sẽ khiến cho sự đùn đẩy trách nhiệm sẽ không có cơ hội để tiếp tục, vì vỏ bọc an toàn mang tên “trách nhiệm tập thể” sẽ biến mất, thay vào đó là sự minh bạch của trách nhiệm cá nhân[20].

Thứ hai, về số lượng Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân.

Theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương hiện hành thì “UBND thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương loại I có không quá ba Phó Chủ tịch; thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương loại II và loại III có không quá hai Phó Chủ tịch”. Như vậy, với quy định này thì thành phố Thủ Đức sẽ có tối đa là 03 Phó Chủ tịch UBND. Tác giả cho rằng, pháp luật nên quy định cho UBND thành phố Thủ Đức thêm 01 Phó Chủ tịch để phụ trách những mảng công tác đặc thù của một đô thị sáng tạo. Khoản 4 Điều 8 Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16/11/2020 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quy định số lượng Phó Chủ tịch UBND phường là không quá 02. Quy định này là áp dụng cho các phường trong quận và các phường trong thành phố thuộc thành phố. Nhóm tác giả cho rằng nên có sự phân hóa về số lượng Phó Chủ tịch UBND phường theo hướng: Các phường trong quận không quá 02, các phường trong thành phố thuộc thành phố không quá 03. Bên cạnh đó, tác giả cho rằng, việc không tổ chức HĐND phường (trong khi đó, vẫn tổ chức HĐND xã) còn phản ánh một triết lý sâu xa trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương là ở địa bàn đô thị cần phát huy phương thức dân chủ trực tiếp. Vì vậy, cần phải nghiên cứu để sửa đổi hoặc ban hành mới các quy định có liên quan đến trưng cầu ý kiến nhân dân, lấy ý kiến nhân dân, họp dân… và đặc biệt là vấn đề dân bầu trực tiếp Chủ tịch UBND phường[21].

Thứ ba, về các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân.

Hiện nay, việc tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện được thực hiện theo Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 108/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020). Điều này cũng đồng nghĩa với việc Chính phủ không có quy định đặc thù nào dành cho các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố thuộc thành phố. Cho nên, UBND thành phố Thủ Đức sẽ là 10 cơ quan chuyên môn được tổ chức thống nhất ở các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trong cả nước, bao gồm: Phòng Nội vụ; Phòng Tư pháp; Phòng Tài chính - Kế hoạch; Phòng Tài nguyên và Môi trường; Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội; Phòng Văn hóa và Thông tin; Phòng Giáo dục và Đào tạo; Phòng Y tế; Thanh tra Thành phố; Văn phòng HĐND và UBND. Ngoài ra, sẽ có hai cơ quan chuyên môn được tổ chức phù hợp với tính chất của chính quyền đô thị, đó là Phòng Kinh tế[22] và Phòng Quản lý đô thị[23]. Đứng đầu mỗi phòng là Trưởng phòng và giúp việc có không quá 03 Phó phòng. Nhóm tác giả cho rằng, cần nghiên cứu để thành lập thêm một số phòng chức năng như Phòng quản lý khu công nghệ cao, Phòng Thương mại để giúp UBND thành phố Thủ Đức quản lý hiệu quả những lĩnh vực đặc thù của một thành phố sáng tạo[24].

Mặt khác, cần tổ chức lại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố Thủ Đức theo hướng tăng cường yếu tố “đa ngành, đa lĩnh vực” để một mặt giảm số lượng các đầu mối quản lý, mặt khác đảm bảo sự liên thông trong quản lý, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp đồng thời hạn chế những khoảng trống có thể phát sinh từ sự giao thoa giữa một số ngành, lĩnh vực. cần phải nghiêm túc tính đến yếu tố khoa học, hợp lý trong cách thức tổ chức và vận hành của hệ thống các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố Thủ Đức, từ đó mới có thể thiết lập nên một UBND thành phố Thủ Đức đủ mạnh và hiệu quả. Trước mắt, có thể sàng lọc, sắp xếp sáp nhập một số phòng phụ trách những ngành, lĩnh vực gần gũi nhau, liên quan chặt chẽ với nhau, thường xuyên tương tác và hỗ trợ nhau trong quá trình tham mưu, giúp UBND thành phố Thủ Đức thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực. Từ sự sắp xếp, thu gọn đó, hướng đến việc hình thành hai bộ phận cơ quan chuyên môn: một bộ phận thực thi pháp luật (trật tự giao thông, đô thị, xây dựng, quản lý quy hoạch…) và cung ứng dịch vụ hành chính công theo thẩm quyền; các bộ phận khác hoặc chuyển về các sở chuyên ngành thuộc UBND Thành phố Hồ Chí Minh hoặc tăng cường năng lực cho các phường trực thuộc[25]. Ngoài ra, cần tập trung đầu tư cho các cơ quan chuyên môn có vai trò, chức năng quan trọng, gắn liền với thế mạnh, tiềm năng và mục tiêu phát triển của thành phố Thủ Đức, cụ thể như: Phòng Kinh tế, Phòng Quản lý đô thị, Phòng Tài nguyên và Môi trường.

Thứ tư, về mối quan hệ giữa Ủy ban nhân dân thành phố thuộc thành phố với Ủy ban nhân dân các phường trực thuộc.

Đây là mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp với cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới. Và theo nguyên tắc tập trung dân chủ - một trong những nguyên tắc cơ bản chi phối tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, cơ quan cấp dưới phải phục tùng cơ quan cấp trên nhằm bảo đảm thẩm cấp hành chính, bảo đảm trật tự kỷ cương trong hệ thống hành chính nhà nước. Điều này càng cần được nhấn mạnh trong chính quyền thành phố Thủ Đức, nơi không tổ chức HĐND phường, UBND phường hoạt động theo chế độ thủ trưởng và Chủ tịch UBND phường do Chủ tịch UBND thành phố thuộc thành phố bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, tạm đình chỉ công tác, khen thưởng, kỷ luật[26]... Điều 8 và Điều 9 của Nghị quyết số 131/2020 quy định khá nhiều điểm mới về cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của UBND phường và nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch UBND phường và UBND phường. Nhóm tác giả cho rằng, những điểm mới này là cơ sở pháp lý rất quan trọng cho tổ chức và hoạt động của UBND phường trong bối cảnh không tổ chức HĐND phường. Tuy nhiên, nếu khoản 2 Điều 8 đã quy định “Ủy ban nhân dân phường làm việc theo chế độ thủ trưởng” thì chỉ nên quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch UBND phường mà không nên quy định nhiệm vụ, quyền hạn của UBND phường. Vì vậy, những quy định tại Điều 9 của Nghị quyết này cần tích hợp vào Điều 8. Bởi lẽ, với chế độ làm việc thủ trưởng thì cho dù Chủ tịch UBND phường có đem vấn đề thuộc thẩm quyền của UBND phường ra bàn bạc tập thể thì người quyết định cuối cùng và chịu trách nhiệm cuối cùng vẫn là Chủ tịch UBND phường[27].

Như vậy, có thể thấy, việc thiết lập mô hình chính quyền thành phố thuộc thành phố là một điểm mới trong quy định về chính quyền địa phương ở nước ta nên chắc chắn sẽ có rất nhiều triển vọng và thách thức cần giải quyết trong thời gian tới. Điều này đòi hỏi cần có sự nhìn nhận, nghiên cứu, tổng kết một cách nghiêm túc cũng như cần tham khảo kinh nghiệm xây dựng chính quyền thành phố thuộc thành phố nói riêng và chính quyền đô thị nói chung ở một số quốc gia trên thế giới. Việc nghiên cứu sẽ giúp chúng ta tránh được những hạn chế, những điểm không phù hợp; đồng thời phát huy được những ưu điểm trong quá trình xây dựng và áp dụng. Việc hoàn thiện thể chế pháp lý cho mô hình chính quyền thành phố thuộc thành phố vừa phải đáp ứng các yêu cầu xây dựng chính quyền đô thị nói chung nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta./.

TS. Nguyễn Mạnh Hùng & ThS. Huỳnh Thị Hồng Nhiên
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh


[1] Việt Hoa, “Thành phố Thủ Đức là phân khu đặc biệt của TP. Hồ Chí Minh”, Báo Pháp luật, ngày 22/5/2022, URL:https://plo.vn/thoi-su/tp-thu-duc-la-phan-khu-dac-biet-cua-tphcm-935433.html.

[2] Nguyễn Minh Hòa, “Khu đô thị sáng tạo phía Đông Thành phố Hồ Chí Minh: Những điều cần cân nhắc”, Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 23/5/2022, .

[3] Khoản 1, khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16/11/2020 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh.

[4] Điều 1 Nghị quyết số 111/NQ-UBTVQH14 ngày 9/12/2020 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.

[5] Cẩm Hà, “Chính thức thành lập thành phố Thủ Đức thuộc TP. Hồ Chí Minh”, Trang tin điện tử Đảng bộ Thành phố Hồ Chính Minh, ngày 22/5/2022, .

[6] Chí Kiên, “Tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Báo Chính phủ, ngày 09/9/2022, .

[7] Khoản 2, 3 Điều 1 Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16/11/2020 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh.

[8] Đỗ Thị Hiện, “Mô hình chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Lý luận Chính trị, ngày 9/9/2022, .

[9] Điều 1 Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày ngày 16/11/2020 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh.

[10] Hoàng Hiền, “Tìm hiểu về vai trò của HĐND trong Hiến pháp năm 2013”, Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang, ngày 22/5/2022, .

[11] Tạ Thị Yên, “Cơ cấu, tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân”, lapphap.vn, ngày 17/11/2020.

[12] Vũ Văn Nhiêm, 2007. Pháp luật bầu cử nhìn từ góc độ bảo đảm tự do, công bằng, cạnh tranh và tính đại diện, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4.

[13] Hoàng Nguyên Thắng, “Tìm hiểu nguyên tắc bầu cử trong Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015”.

15. Kiemsat Online, ngày 26/5/2022, .

[14] Thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương có từ một trăm nghìn dân trở xuống được bầu ba mươi đại biểu; có trên một trăm nghìn dân thì cứ thêm mười lăm nghìn dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi lăm đại biểu.

[15] X.L, “Điểm mới về tổ chức của Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026”, Sở Tư pháp tỉnh Đắk Lắk, ngày 26/5/2022, .

[16] Trần Quốc Toản, “Giải pháp triển khai hiệu quả luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tổ chức chinh quyền địa phương năm 2019”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, ngày 26/5/2022, .

[17] Theo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Đề án thành lập thành phố Thủ Đức, tháng 8/2020.

[18] Khoản 2 Điều 113 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).

[19] Bùi Thị Ngọc Mai, 2016. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 51 - 62.

[20] Nguyễn Hữu Đổng, 2015. Vấn đề “nguyên tắc tập trung dân chủ” trong tổ chức, hoạt động của Đảng và Nhà nước, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10 (290), tr. 10.

[21] Nguyễn Hoàng Thanh, 2014. Về một số nội dung trong Dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 19 (275), tháng 10.

[22] Phòng Kinh tế nhằm tham mưu, giúp UBND thành phố thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiểu thủ công nghiệp; khoa học và công nghệ; công nghiệp; thương mại; phòng, chống thiên tai.

[23] Phòng Quản lý đô thị nhằm tham mưu, giúp UBND thành phố thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Quy hoạch xây dựng, kiến trúc; hoạt động đầu tư xây dựng; phát triển đô thị; hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao; nhà ở; công sở; vật liệu xây dựng; giao thông.

[24] Về vấn đề này, có thể tham khảo cách tổ chức các cơ quan chuyên môn ở Phố Đông Tân Khu trực thuộc TP. Thượng Hải của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa: Cơ cấu của Chính phủ (tức là cơ quan hành chính ở địa phương) bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và lãnh đạo của các cơ quan chuyên môn (có nhiều tên gọi như sở, cục, ủy ban, phòng). Trong Chính phủ có các cơ quan chuyên môn như Văn phòng chính phủ, Ủy ban tin tức, Cục tư pháp, Cục giáo dục, Cục tài chính, Cục quản lý khẩn cấp, Cục sở hữu trí tuệ, Ủy ban nông nghiệp và nông thôn, Ủy ban thương vụ… Ngoài ra, do tính chất đặc thù, tại Phố Đông Tân Khu có thành lập các cơ quan đặc biệt quản lý những khu vực thương mại tự do gồm: Ủy ban quản lý khu nghỉ dưỡng quốc tế, Cục quản lý khu vực thương mại tự do miễn thuế quan, Cục quản lý trung tâm thương mại và tài chính Lục Gia Chủy, Cục quản lý khu nghiên cứu và phát triển kinh tế Kim Kiều, Cục quản lý khu công nghệ cao Trương Giang, Cục quản lý khu vực thương mại tự do Thế Bác và Cục quản lý khu Expo.

[25] Lê Thiên Hương, 2011. Mô hình tổ chức chính quyền đô thị khi không tổ chức HĐND, trong cuốn “Hiến pháp Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 879.

[26] Lê Thương Huyền, “Bàn về mối quan hệ giữa Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân trong tổ chức quyền lực nhà nước”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, ngày 23/5/2022, .

[27] Đoàn Trường Thụ và Hoàng Thị Thảo, “Mô hình chính quyền đô thị và cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng”, Tạp chí Cộng sản, ngày 27/5/2022, .

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu phấn đấu có 02 triệu doanh nghiệp đến năm 2030 và 03 triệu doanh nghiệp đến năm 2045. Để chính sách phát huy hiệu quả cũng cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn, thách thức. Đây là một trong những nội dung nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội và được các đại biểu Quốc hội chất vấn tại Phiên chất vấn về nhóm vấn đề thứ nhất thuộc lĩnh vực tài chính diễn ra vào sáng ngày 19/6/2025.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh tại phiên họp toàn thể tại Hội trường Quốc hội sáng ngày 25/6/2025 về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Với 435/435 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu tham gia biểu quyết), Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Sáng 24/6/2025, với 416/416 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu có mặt), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Ngày 16/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật số 72/2025/QH15 (Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025) đã nâng tầm vị trí, vai trò, chức năng của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng chuyển đổi từ tư duy điều hành tập thể sang phát huy vai trò cá nhân, gắn với chế độ, trách nhiệm rõ ràng, cụ thể. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không chỉ là người đứng đầu về mặt hành chính mà còn là hạt nhân điều hành, góp phần hiện thực hóa mô hình quản trị địa phương hiện đại.
Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Ngày 10/4/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 745/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ” (Đề án).
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm