Thứ năm 12/06/2025 16:40
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Mối quan hệ giữa cơ quan hải quan và cơ quan cảnh sát điều tra trong hoạt động điều tra hình sự

Trong những năm gần đây, tình hình, diễn biến tội phạm, buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả và vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới ngày càng phức tạp, gia tăng cả về số vụ việc, trị giá hàng hóa, đa dạng về thành phần đối tượng tham gia. Đặc biệt, các đối tượng luôn thay đổi phương thức, thủ đoạn hoạt động để thực hiện hành vi phạm tội.

Hiện nay, việc phối hợp giữa lực lượng hải quan và các lực lượng khác trong hoạt động đấu tranh phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại được điều chỉnh bởi nhiều văn bản khác nhau trong đó có Luật Hải quan năm 2014, Quyết định số 19/2016/QĐ-TTg ngày 06/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế về trách nhiệm và quan hệ phối hợp hoạt động giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả. Trong hoạt động điều tra hình sự thì bên cạnh các văn bản quy phạm pháp luật như Luật Xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành thì Ngành Hải quan cũng đã ký quy chế phối hợp với các lực lượng khác như cơ quan công an, lực lượng biên phòng… như Quy chế phối hợp số 5341/QCPH/TCHQ-TCCS ngày 22/11/2007 giữa lực lượng hải quan và lực lượng Tổng cục Cảnh sát nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật; Quy định phối hợp số 458/2013/QĐPH/ĐTCBL-V1 ngày 09/5/2013 giữa Cục Điều tra chống buôn lậu - Tổng cục Hải quan với Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án kinh tế và chức vụ - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Quyết định số 133/2002/QĐ-TTg ngày 09/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế phối hợp giữa lực lượng công an, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển và hải quan trong đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy tại địa bàn biên giới, cửa khẩu và trên biển; Quy chế phối hợp số 5000/QC-TCHQ-BTLBĐBP ngày 20/9/2012 về phối hợp hoạt động giữa hải quan và Bộ đội Biên phòng… Đây là những văn bản quan trọng điều chỉnh mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan hải quan với các cơ quan tiến hành tố tụng như cơ quan công an, Viện kiểm sát và các cơ quan hữu quan liên quan trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu và gian lận thương mại nói chung, trong hoạt động điều tra hình sự nói riêng.

Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm liên quan đến lĩnh vực hải quan đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các lực lượng chức năng như Công an, Viện kiểm sát, Bộ đội Biên phòng… Trong đó, cơ quan cảnh sát điều tra (cơ quan công an) với vai trò là cơ quan điều tra chuyên trách có mối quan hệ chặt chẽ với cơ quan hải quan trong hoạt động điều tra hình sự.

Theo quy định tại Điều 4 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2014 thì cơ quan công an là một trong ba cơ quan điều tra chuyên trách, có phạm vi thẩm quyền điều tra rất rộng bao gồm tất cả các tội danh trừ một số tội danh thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Mối quan hệ giữa cơ quan hải quan và cơ quan công an được thể hiện qua 02 giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất, trước khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự

Trong giai đoạn này, mối quan hệ giữa cơ quan hải quan với cơ quan công an chủ yếu là trong công tác trao đổi, phối hợp kiểm tra thực tế hàng hóa và công tác xác minh ban đầu.

Theo kết quả thống kê của Ngành Hải quan, từ năm 2015 - 2017, cơ quan hải quan đã phối hợp với cơ quan công an 737 vụ, trong đó 47 vụ liên quan đến an ninh quốc gia, an ninh trật tự, 520 vụ liên quan đến buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa và 224 vụ liên quan đến mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy. Do Luật Hải quan năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định trong phạm vi địa bàn hoạt động hải quan, cơ quan hải quan sẽ chủ trì trong việc kiểm tra, xử lý vi phạm. Do đó, nhiều vụ việc cơ quan công an có thông tin vi phạm nhưng do liên quan đến các lô hàng hóa xuất, nhập khẩu trong địa bàn hoạt động hải quan nên cơ quan công an khi có thông tin đã chủ động thông báo, phối hợp với cơ quan hải quan để kịp thời phát hiện vi phạm. Điều này thể hiện qua các lần phối hợp kiểm tra, xử lý như vụ buôn lậu ngà voi, sừng tê giác do Công ty TNHH Vạn An ở Đà Nẵng, vụ buôn lậu xăng dầu của Công ty Dương Đông Hòa Phú tại Bình Thuận... Ngoài ra, đối với một số vụ việc cần phải tiến hành xác minh để làm rõ dấu hiệu tội phạm, cơ quan hải quan và cơ quan công an cũng phối hợp với nhau trong việc trao đổi thông tin, xác minh các tình tiết làm rõ hành vi vi phạm của các đối tượng. Đối với các vụ việc đối tượng vi phạm cơ quan hải quan phát hiện ở ngoài khu vực địa bàn hoạt động hải quan thì cơ quan hải quan chủ động phối hợp hoặc theo đề nghị phối hợp của cơ quan công an trong việc ngăn chặn, bắt giữ và xử lý các vi phạm này.

Thực tiễn trong quá trình điều tra, xác minh của cơ quan hải quan đối với các vụ việc, đặc biệt là các vụ việc phức tạp, có dấu hiệu hình sự, cơ quan hải quan phải triệu tập các đối tượng liên quan làm việc để xác minh, làm rõ trong khi các đối tượng này thường lẩn tránh, không hợp tác... trong một số trường hợp còn cản trở, đe dọa cán bộ hải quan thực thi nhiệm vụ thì cơ quan hải quan thường phối hợp với lực lượng công an để triển khai nhiệm vụ này. Tuy nhiên, do chưa có quyết định khởi tố vụ án, việc triệu tập các đối tượng lên làm việc theo thủ tục hành chính chủ yếu dựa trên sự thiện chí, hợp tác của đối tượng.

Giai đoạn thứ hai, sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự

Theo quy định điểm b khoản 1 Điều 33 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì cơ quan hải quan ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, lấy lời khai, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án, khám người, khám nơi cất giữ hàng hóa trong khu vực kiểm soát hải quan, sau đó chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Theo đó, sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, cơ quan hải quan thực hiện:

- Gửi văn bản đề nghị cơ quan cảnh sát điều tra cùng cấp tiếp nhận hồ sơ, tài liệu, tang vật vụ án hoặc có văn bản đề nghị Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan điều tra, đối với trường hợp giao cơ quan điều tra ở cấp dưới hoặc địa phương khác điều tra vụ án.

- Sau khi có quyết định chuyển hồ sơ và tang vật vụ án của Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan hải quan ban hành văn bản đề nghị cơ quan cảnh sát điều tra tiếp nhận hồ sơ và tang vật vụ án.

- Cán bộ, công chức hải quan được giao nhiệm vụ thụ lý vụ án chuẩn bị hồ sơ, tài liệu, tang vật vụ án, dự thảo biên bản bàn giao, đánh bút lục hồ sơ tài liệu, liên hệ cán bộ tiếp nhận để bàn giao hồ sơ và tang vật vụ án theo quy định.

- Tiến hành bàn giao hồ sơ, tang vật vụ án trong thời hạn quy định.

- Phối hợp trong hoạt động điều tra.

Thực tiễn công tác phối hợp giữa cơ quan hải quan với cơ quan điều tra trong thời gian qua đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận, các vụ án do cơ quan hải quan khởi tố, xác minh ban đầu được chuyển sang cơ quan điều tra đều đảm bảo tuân thủ đúng trình tự, thủ tục tố tụng, kịp thời, đúng thời hạn. Trong quá trình điều tra vụ án, cơ quan hải quan luôn tạo điều kiện hỗ trợ trong việc cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan đến vụ án đặc biệt là các quy định, quy trình về thủ tục hải quan góp phần giúp cơ quan điều tra hoàn thành nhiệm vụ. Tỷ lệ số vụ án chuyển cho cơ quan điều tra bị đình chỉ rất thấp. Từ năm 2014 đến tháng 6/2018, số vụ án buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới chuyển sang cơ quan điều tra mới bị đình chỉ 03 vụ (trong đó 02 vụ cơ quan hải quan đã đề nghị Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định phục hồi điều tra và đã được chấp nhận).

Thực tiễn phối hợp với cơ quan cảnh sát điều tra (cơ quan công an), cơ quan hải quan gặp phải một số khó khăn, vướng mắc như sau:

Thứ nhất, vướng mắc trong việc bàn giao vật chứng để bảo quản, xử lý theo quy định

Theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm a, điểm b khoản Điều 33 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 thì trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố thì cơ quan hải quan chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan điều tra hoặc có văn bản đề nghị Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp ra quyết định chuyển hồ sơ, tang vật vụ án buôn lậu đối với trường hợp chuyển cho cơ quan điều tra không cùng cấp. Trên cơ sở quyết định chuyển hồ sơ, tang vật vụ án, cơ quan hải quan có văn bản đề nghị cơ quan cảnh sát điều tra có thẩm quyền thụ lý, tiếp nhận hồ sơ kèm theo tang vật vụ án.

Tuy nhiên, trong năm 2016, cơ quan hải quan đã ra 03 quyết định khởi tố (05, 06, 08) khởi tố vụ án buôn lậu 354 tấn lúa (thóc) từ Campuchia về Việt Nam qua cửa khẩu biên giới bằng ghe gỗ, không khai báo, không làm thủ tục hải quan. Tuy nhiên, cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh An Giang, cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Đồng Tháp không tiếp nhận số tang vật là thóc, chỉ tiếp nhận phương tiện vi phạm là ghe gỗ. Lý do cơ quan cảnh sát điều tra từ chối nhận bàn giao tang vật là: Theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 20 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 và Điều 111 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không quy định rõ khi có quyết định khởi tố vụ án, cơ quan hải quan chuyển hồ sơ bao gồm cả tang vật tại thời điểm chuyển giao hồ sơ vụ án[1]. Điều này dẫn đến cơ quan cảnh sát điều tra khi tiếp nhận hồ sơ vụ án chưa tiếp nhận tang vật vụ án. Các cơ quan này cho rằng, tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ chưa tiếp nhận để điều tra sơ bộ nếu có dấu hiệu thì mới tiếp nhận.

Để khắc phục tình trạng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, khoản 1 Điều 131 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể hồ sơ vụ án gồm: “a) Lệnh, quyết định, yêu cầu của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát;

b) Các biên bản tố tụng do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát lập;

c) Các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án”.

Theo đó, khi cơ quan hải quan chuyển giao hồ sơ vụ án thì có nghĩa cơ quan cảnh sát điều tra phải tiếp nhận cả tang vật vụ án. Tuy nhiên, thực tiễn khi chuyển giao hồ sơ vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan hải quan vẫn gặp phải tình trạng cơ quan cảnh sát điều tra không tiếp nhận ngay tang vật kèm theo vụ án như trong vụ án buôn lậu xảy ra tại tỉnh Tây Ninh theo Quyết định khởi tố vụ án số 01/QĐ-ĐTCBL năm 2018 khởi tố vụ án hình sự về tội buôn lậu xảy ra tại cửa khẩu Mộc Bài, tỉnh Tây Ninh. Điều này gây khó khăn cho cơ quan hải quan trong việc quản lý tang vật vi phạm liên quan đến vụ án đặc biệt trong trường hợp hàng hóa đó là hàng hóa mau hỏng, khó bảo quản hoặc phải tiến hành thuê kho, thuê bãi để bảo quản, cụ thể:

(i) Theo quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 90 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 “vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi quyền hạn của mình quyết định bán theo quy định của pháp luật và chuyển tiền đến tài khoản tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền tại Kho bạc Nhà nước để quản lý;

Theo quy định tại khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 “việc xử lý vật chứng do cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Chánh án Tòa án quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn chuẩn bị xét xử; do Hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án đã đưa ra xét xử. Việc thi hành quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản”.

Theo quy định trên thì cơ quan hải quan chỉ được phép xử lý vật chứng khi vụ án đó được đình chỉ ở giai đoạn điều tra. Trong trường hợp này, cơ quan hải quan đã có văn bản hoặc Viện kiểm sát nhân dân đã có quyết định chuyển hồ sơ vụ án (bao gồm cả tang vật) cho cơ quan cảnh sát điều tra cơ quan công an thì cơ quan hải quan có thẩm quyền xử lý tang vật này theo điểm d, khoản 1 Điều 90 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 hay không. Do không có hướng dẫn cụ thể nên cơ quan hải quan không thể xử lý được vật chứng là hàng hóa mau hỏng, khó bảo quản.

(ii) Theo quy định khoản 8 Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định cụ thể về thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm tối đa không quá 60 ngày (bao gồm cả thời hạn xin gia hạn). Theo đó, quá thời hạn trên cơ quan điều tra không tiếp nhận thì cơ quan hải quan sẽ gặp khó khăn tạm giữ, bảo quản số tang vật, vật chứng này. Việc cơ quan cảnh sát điều tra không tiếp nhận, đồng thời cũng không ra quyết định xử lý đối với tang vật này dẫn đến cơ quan hải quan vẫn phải tiếp tục bảo quản lưu giữ. Đặc biệt, các chi phí phát sinh liên quan đến bảo quản tang vật như chi phí lưu giữ, bảo quản (thuê kho, sấy) đối với số tang vật này; cơ quan hải quan vẫn phải thực hiện thanh toán trong khi không đủ cơ sở, căn cứ pháp lý để thanh toán vì thời hạn tạm giữ đã hết. Cơ quan hải quan đã chuyển giao toàn bộ hồ sơ vụ việc cho cơ quan cảnh sát điều tra để giải quyết theo thẩm quyền.

Thứ hai, vướng mắc trong việc xử lý tang vật vụ án khi đình chỉ điều tra vụ án hình sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 “việc xử lý vật chứng do cơ quan điều tra quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Toà án hoặc Hội đồng xét xử quyết định ở giai đoạn xét xử. Việc thi hành các quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản

Theo quy định trên việc xử lý vật chứng do cơ quan điều tra quyết định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra. Việc thi hành các quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản. Thực tiễn trong thời gian qua, cơ quan hải quan đang gặp vướng mắc liên quan đến việc xử lý vật chứng của 02 vụ án gồm 232,741 tấn thóc khi cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh An Giang đình chỉ điều tra vụ án. Theo thông báo của cơ quan cảnh sát điều tra, Công an tỉnh An Giang thì cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định đình chỉ 02 vụ án buôn lậu theo quyết định khởi tố vụ án hình sự của cơ quan hải quan mà không đưa ra quyết định xử lý vật chứng mà chỉ thông báo chuyển lại hồ sơ lại để cơ quan hải quan giải quyết theo thẩm quyền.

Căn cứ quy định tại khoản 1 Ðiều 76 Bộ luật Hình sự, cơ quan cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Ðồng Tháp khi nhận được kiến nghị của cơ quan hải quan đã ra quyết định xử lý vật chứng theo quy định. Tuy nhiên, đối với cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh An Giang hiện nay vẫn không đưa ra quyết định xử lý vật chứng tang vật theo thẩm quyền, trong khi đó tang vật cơ quan hải quan vẫn phải bảo quản, các chi phí phát sinh vẫn đang do cơ quan hải quan chi trả. Pháp luật quy định rất rõ ràng thẩm quyền của từng cơ quan trong việc xử lý vật chứng trong từng giai đoạn cụ thể. Như vậy, khi cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý vật chứng khi có quyết định đình chỉ điều tra sẽ dẫn đến thực tế là tang vật đó vẫn phát sinh các chi phí bảo quản, lưu giữ, lưu kho, chất lượng giảm sút dễ dẫn đến hư hỏng.

Khắc phục tình trạng trên khoản 1 Ðiều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định “việc xử lý vật chứng do cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Chánh án Tòa án quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn chuẩn bị xét xử; do Hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án đã đưa ra xét xử. Việc thi hành quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản”. Với quy định này thì cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có quyền xử lý vật chứng nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra. Vấn đề đặt ra khi vật chứng đó đã được bàn giao cho cơ quan cảnh sát điều tra thì cơ quan cảnh sát điều tra sẽ xử lý hay sẽ trả lại để cơ quan hải quan tiến hành xử lý vật chứng.

Căn cứ quy định trên thì trường hợp vật chứng đó đã được bàn giao cho cơ quan cảnh sát điều tra thì cơ quan này sẽ xử lý vật chứng.Cơ quan hải quan chỉ xử lý vật chứng khi vật chứng này cơ quan hải quan vẫn đang tạm giữ, bảo quản.

Thứ ba, việc cơ quan cảnh sát điều tra thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan hải quan đối với các hồ sơ vụ án do cơ quan hải quan đã chuyển

Theo quy định tại Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 33 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định cơ quan hải quan phải chuyển hồ sơ vụ án cho cơ quan cảnh sát điều tra (cơ quan công an) để cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra theo thẩm quyền. Thực tế trong thời gian qua cơ quan hải quan đã chuyển giao rất nhiều vụ án cho cơ quan cảnh sát điều tra nhưng “rất lâu” không thấy cơ quan điều tra thông báo kết quả điều tra như thế nào?

Theo quy định Điều 172 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thời hạn điều tra “thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra”. Trường hợp cần thiết thì Viện kiểm sát sẽ giai hạn thời hạn điều tra. Tuy nhiên, dù vụ án được điều tra trong thời hạn hay được gia hạn thì vụ án vẫn có quy định hạn lượng về thời hạn điều tra.

Theo quy định tại Điều 232 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định việc kết thúc điều tra: “1. Khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra phải ra bản kết luận điều tra.

2. Việc điều tra kết thúc khi cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra.

3. Bản kết luận điều tra ghi rõ ngày, tháng, năm; họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra kết luận.

4. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, cơ quan điều tra phải giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp; giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can hoặc người đại diện của bị can; gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho người bào chữa; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.

Theo quy định trên thì không quy định trách nhiệm kết thúc điều tra thì cơ quan cảnh sát điều tra phải thông báo cho cơ quan đã chuyển giao hồ sơ vụ án cho mình.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 40 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 “3. Cơ quan điều tra có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ vụ án do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển giao theo thẩm quyền và thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan đã chuyển giao hồ sơ vụ án”. Như vậy, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự đã quy định trách nhiệm của cơ quan điều tra phải thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan đã chuyển hồ sơ vụ án cho mình. Tuy nhiên, do chưa có hướng dẫn về thời điểm thông báo khi nào cơ quan điều tra phải thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan hải quan, hình thức thông báo như thế nào dẫn đến thực tiễn trong thời gian qua, việc thực hiện quy định này chưa được thực thi trên thực tế. Do đó, theo quan điểm của tác giả thì việc thông báo kết quả điều tra được thực hiện khi kết thúc điều tra. Do vậy, cần sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 232 Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng: “4. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, cơ quan điều tra phải giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp; giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can hoặc người đại diện của bị can; gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho người bào chữa; thông báo cho bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ và cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp vụ án do cơ quan này chuyển giao”.

ThS. Phạm Văn Bằng

Cục Điều tra chống buôn lậu


[1] Hiện nay, Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 33 Luật Tổ chức cơ quan điều tra cũng chỉ quy định chỉ chuyển hồ sơ vụ án, không quy định rõ có phải chuyển cả tang vật vụ án hay không.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm