Chủ nhật 07/12/2025 19:37
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số bất cập về điều kiện hành nghề công chứng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Điều kiện hành nghề công chứng là những yêu cầu của Nhà nước đưa ra và buộc các tổ chức, cá nhân phải thực hiện đầy đủ mới được thành lập, đăng ký hành nghề và tiến hành các hoạt động hành nghề công chứng. Bài viết tập trung phân tích một số bất cập về điều kiện hành nghề công chứng hiện nay, từ đó kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.

Điều kiện hành nghề công chứng là những yêu cầu của Nhà nước đưa ra và buộc các tổ chức, cá nhân phải thực hiện đầy đủ mới được thành lập, đăng ký hành nghề và tiến hành các hoạt động hành nghề công chứng. Bài viết tập trung phân tích một số bất cập về điều kiện hành nghề công chứng hiện nay, từ đó kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.

1. Quy định về độ tuổi hành nghề công chứng

Điều 8 Luật Công chứng năm 2014 quy định sáu tiêu chuẩn để xem xét, bổ nhiệm công chứng viên là: (i) Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt; (ii) Có bằng cử nhân luật; (iii) Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật; (iv) Tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công; (v) Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng; (vi) Bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng.

Nghiên cứu các tiêu chuẩn nêu trên cho thấy có vướng mắc, bất cập khi Luật Công chứng hiện hành không quy định về tiêu chuẩn độ tuổi hành nghề công chứng. Theo quy định hiện nay thì bất cứ ai đủ tiêu chuẩn theo Điều 8 Luật Công chứng năm 2014 đều có thể làm hồ sơ để xin hành nghề công chứng, kể cả khi họ là người cao tuổi[1], rất cao tuổi, ví dụ như trên 70 tuổi và có thể hành nghề cho đến 80 tuổi hoặc hơn thế. Trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền cũng không có căn cứ để từ chối việc tiếp nhận hồ sơ xem xét, bổ nhiệm công chứng viên, trong khi đó hoạt động công chứng là lĩnh vực đòi hỏi công chứng viên phải là người có đủ sức khỏe, trí tuệ minh mẫn trong quá trình hành nghề.

Hiện nay, độ tuổi lao động nói chung ở Việt Nam đối với nam 60 tuổi, nữ 55 tuổi là đến tuổi nghỉ hưu, có một số nghề được kéo dài thời gian hành nghề, chẳng hạn như nghề dạy học. Theo khoản 2 Điều 9 của Nghị định số 141/2013/ NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục Đại học: “Thời gian kéo dài làm việc đối với giảng viên có trình độ tiến sĩ là không quá 5 năm; đối với giảng viên có chức danh phó giáo sư là không quá 7 năm và đối với giảng viên có chức danh giáo sư là không quá 10 năm”.

Như vậy, điều kiện về độ tuổi là điều kiện cần thiết đối với người hành nghề nói chung và hành nghề công chứng nói riêng. Thời gian hành nghề có thể kéo dài đến 70 tuổi sẽ là phù hợp với thông lệ chung, để vừa sử dụng, khai thác hiệu quả nguồn lực công chứng viên có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn, vừa bảo đảm chất lượng, hiệu quả của hoạt động công chứng. Từ quan điểm này, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 8 Luật Công chứng năm 2014 theo hướng quy định bổ sung thêm tiêu chuẩn xem xét, bổ nhiệm công chứng viên là: “Dưới 70 tuổi và bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng”. Theo đó, trường hợp người trên 70 tuổi thì sẽ không được xem xét, bổ nhiệm công chứng viên hoặc người đang là công chứng viên hành nghề thì khi họ đến 70 tuổi sẽ được cơ quan có thẩm quyền rà soát, thực hiện miễn nhiệm công chứng viên theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Luật Công chứng.

2. Quy định về tiêu chuẩn công chứng viên phải có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật

Khoản 2 Điều 8 Luật Công chứng năm 2014 quy định tiêu chuẩn công chứng viên phải “có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật”.

Quy định này hướng tới việc bổ nhiệm công chứng viên phải có kinh nghiệm thực tiễn và am hiểu pháp luật nhưng việc triển khai thực hiện trên thực tế có nhiều bất cập, vướng mắc do chưa làm rõ được nội hàm của khái niệm công tác pháp luật. Hiện nay, chưa có văn bản nào quy định rõ công tác pháp luật là làm những công việc gì và làm ở ngành nghề, cơ quan, tổ chức nào nên dẫn đến nhiều cách hiểu, áp dụng khác nhau. Tại khoản 3 Điều 3 của Thông tư số 01/2021/TT-BTP ngày 03/02/2021 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Công chứng (Thông tư 01/2021/TT-BTP) đã có hướng dẫn cụ thể về giấy tờ chứng minh về thời gian làm công tác pháp luật đối với các đối tượng như: Thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ chuyên ngành luật; thẩm tra viên cao cấp ngành tòa án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát, chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật; luật sư, đấu giá viên, quản tài viên, thừa phát lại.

Tuy nhiên, Thông tư 01/2021/TT-BTP lại không đề cập tới nhiều trường hợp khác như đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân là những người làm công tác lập pháp, lập quy, giám sát việc thi hành pháp luật thì sau khi hết nhiệm kỳ 05 năm, có được tính đó là thời gian làm công tác pháp luật hay không? Bên cạnh đó, điểm b khoản 3 Điều 3 của Thông tư này còn quy định chung chung, chưa làm rõ được công tác pháp luật của các chủ thể khác là người lao động, người sử dụng lao động thuộc các thành phần kinh tế. Chẳng hạn, quy định về giấy tờ chứng minh thời gian làm công tác pháp luật: “Quyết định tuyển dụng, quyết định luân chuyển, điều động, hợp đồng làm việc hoặc hợp đồng lao động kèm theo giấy tờ chứng minh thời gian đóng bảo hiểm xã hội phù hợp với vị trí công tác pháp luật được tuyển dụng hoặc ký hợp đồng”. Với quy định này thì rất khó để xác định người được tuyển dụng, ký hợp đồng lao động có phù hợp hay không phù hợp với vị trí công tác pháp luật vì nó phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người xét duyệt hồ sơ mà không thể căn cứ vào quy định của pháp luật. Ví dụ: Giám đốc một doanh nghiệp tư nhân thực hiện quản trị doanh nghiệp trong đó chỉ đạo quản lý, tổ chức thực hiện công tác pháp chế doanh nghiệp thì có được coi là làm công tác pháp luật hay không?

Như vậy, quy định của Luật Công chứng năm 2014 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành điều chỉnh về điều kiện hành nghề công chứng vẫn còn chưa đầy đủ, toàn diện, quy định chưa rõ ràng nên khó thực hiện, có thể tạo ra sự tùy tiện trong áp dụng pháp luật. Để khắc phục tình trạng này, cần phải có văn bản quy định, hướng dẫn cụ thể về công tác pháp luật, thời gian công tác pháp luật đối với từng chủ thể. Từ đó, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 8 Luật Công chứng năm 2014 theo hướng bổ sung quy định về giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết điều khoản “có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật”. Đồng thời, để nâng cao chất lượng bổ nhiệm công chứng viên bảo đảm có kinh nghiệm thực tiễn, am hiểu pháp luật, có thể nghiên cứu sửa đổi Luật Công chứng theo hướng quy định kéo dài thời gian đào tạo, bồi dưỡng, tập sự hành nghề công chứng hơn so với quy định hiện nay.

3. Quy định về điều kiện đối với công chứng viên hướng dẫn tập sự

Tại khoản 3 Điều 11 Luật Công chứng năm 2014 quy định “công chứng viên bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề công chứng thì sau 12 tháng kể từ ngày chấp hành xong quyết định kỷ luật, quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới được hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng”. Nghiên cứu quy định này cho thấy có sự mâu thuẫn với quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính nên dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng trong trường hợp người hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng bị xử phạt cảnh cáo. Cụ thể là, theo khoản 1 Điều 7 của Luật Xử lý vi phạm hành chính, thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính được xác định là nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo mà không tái phạm. Do đó, việc quy định công chứng viên sau 12 tháng kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới được hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng là chưa thống nhất với Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Để khắc phục sự mâu thuẫn giữa Luật Công chứng năm 2014 với Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Công chứng nên được sửa lại theo hướng sau: Công chứng viên bị xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề công chứng thì sau khi hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính mới được hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng.

4. Quy định về những trường hợp không được bổ nhiệm công chứng viên

Khoản 3 Điều 13 Luật Công chứng quy định không bổ nhiệm đối với trường hợp “người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự” mà không đề cập đến trường hợp có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là chưa phù hợp với Điều 46 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể là, tại khoản 1 Điều 46 quy định việc giám hộ đối với “người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.

Tại khoản 1 Điều 23 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ”. Như vậy, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi không thể là đối tượng để xem xét, bổ nhiệm công chứng viên được.

Do đó, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 13 Luật Công chứng năm 2014 theo hướng sau: Không bổ nhiệm công chứng viên đối với người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

5. Quy định về điều kiện miễn nhiệm công chứng viên

Theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 15 Luật Công chứng, công chứng viên “đã bị xử phạt vi phạm hành chính đến lần thứ hai trong hoạt động hành nghề công chứng mà còn tiếp tục vi phạm” thì bị miễn nhiệm công chứng viên. Như vậy, bất kỳ trường hợp nào bị xử phạt vi phạm hành chính đến hai lần mà vi phạm lần thứ ba trong hoạt động hành nghề công chứng là bị miễn nhiệm công chứng viên. Quy định này mâu thuẫn với khoản 1 Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành chính về thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, nếu trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo mà không tái phạm hoặc trong một năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm.

Để bảo đảm phù hợp với tinh thần của Luật Xử lý vi phạm hành chính và tăng cường tính thượng tôn pháp luật của các chủ thể trong quá trình hành nghề công chứng, cần có chế tài xử lý nghiêm khắc đối với các trường hợp công chứng viên vi phạm pháp luật. Vì vậy, tác giả kiến nghị sửa đổi Luật Công chứng năm 2014 theo hướng quy định: Công chứng viên bị miễn nhiệm khi đã bị xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề công chứng và chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính mà tiếp tục vi phạm.

6. Quy định về cấp lại thẻ công chứng viên

Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Công chứng năm 2014, công chứng viên được cấp lại thẻ trong trường hợp “thẻ đã được cấp bị mất, bị hỏng”. Quy định nêu trên chưa điều chỉnh hết quan hệ phát sinh trong hoạt động công chứng khi có yêu cầu cấp lại thẻ công chứng viên trong trường hợp tên gọi văn phòng công chứng thay đổi hoặc công chứng viên chuyển đổi làm việc sang tổ chức hành nghề công chứng khác.

Để khắc phục bất cập nêu trên, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 36 Luật Công chứng năm 2014 như sau: Công chứng viên được cấp lại thẻ công chứng viên trong trường hợp thẻ đã được cấp bị mất, bị hỏng hoặc tổ chức hành nghề công chứng nơi công chứng viên đang hành nghề thay đổi tên gọi hoặc công chứng viên chuyển đổi hành nghề tại tổ chức hành nghề công chứng khác.

Nguyễn Dung


[1] Điều 2 Luật Người cao tuổi năm 2009 quy định người cao tuổi “là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên”.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết phân tích vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước.
Thay thế hồ sơ giấy bằng dữ liệu điện tử từ ngày 01/01/2026

Thay thế hồ sơ giấy bằng dữ liệu điện tử từ ngày 01/01/2026

Ngày 15/11/2025, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 66.7/2025/NQ-CP quy định cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu (Nghị quyết số 66.7/2025/NQ-CP). Nghị quyết số 66.7/2025/NQ-CP là một trong những văn bản được ban hành theo cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật tại Nghị quyết số 206/2025/QH15 của Quốc hội ngày 24/6/2025.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: “Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu là giải pháp căn cơ, toàn diện”

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: “Cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính dựa trên dữ liệu là giải pháp căn cơ, toàn diện”

Trao đổi với báo chí, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh nhấn mạnh: Việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) dựa trên dữ liệu không chỉ nhằm tinh gọn quy trình, giảm thiểu chi phí xã hội mà còn là giải pháp căn cơ để xây dựng nền hành chính phục vụ, hiện đại, minh bạch. Đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong triển khai chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Bổ trợ tư pháp Việt Nam: Kiến tạo niềm tin và hành trình phát triển

Bổ trợ tư pháp Việt Nam: Kiến tạo niềm tin và hành trình phát triển

Sự phát triển của hoạt động bổ trợ tư pháp là một hành trình có tính lịch sử, gắn liền và phản ánh tầm nhìn, sự chủ động của ngành Tư pháp Việt Nam qua từng giai đoạn, từ bối cảnh đất nước mới giành độc lập đến công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
Kết quả đạt được và những đóng góp của công tác lý lịch tư pháp trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Kết quả đạt được và những đóng góp của công tác lý lịch tư pháp trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Trong quá trình gần 15 năm (2010 - 2025) thực hiện, công tác lý lịch tư pháp đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển nhân lực Bộ, ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển nhân lực Bộ, ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Giai đoạn 2015 - 2025, công tác tổ chức bộ máy, cán bộ của Bộ, ngành Tư pháp có bước phát triển toàn diện cả về số lượng và chất lượng, nhân tố quyết định việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp được Đảng, Nhà nước giao.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng của Bộ, ngành Tư pháp tạo động lực thúc đẩy các tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng của Bộ, ngành Tư pháp tạo động lực thúc đẩy các tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao

Trong suốt 80 năm xây dựng và phát triển, kể từ ngày thành lập cho đến nay, ngành Tư pháp luôn quán triệt, vận dụng sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Thấm nhuần lời dạy của Người, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ, ngành Tư pháp đã thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức tổ chức và đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực hoạt động, tạo động lực để cá nhân, tập thể trong toàn Ngành vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được Đảng, Nhà nước giao, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực dân sự - kinh tế, quản lý nhà nước trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - thành tựu và yêu cầu đặt ra trong kỷ nguyên mới

Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực dân sự - kinh tế, quản lý nhà nước trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - thành tựu và yêu cầu đặt ra trong kỷ nguyên mới

Trong bối cảnh mới, để thực hiện nhiệm vụ được giao, lĩnh vực pháp luật dân sự - kinh tế cần định hướng cải cách sâu sắc, trong đó, nổi bật là tư duy đổi mới toàn diện về cách xây dựng và thực thi pháp luật. Mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm. Pháp luật phải trở nên dễ hiểu, dễ tiếp cận, dễ tuân thủ; ngôn ngữ luật cần đơn giản hơn, thủ tục pháp lý cần được số hóa mạnh mẽ và các dịch vụ hỗ trợ pháp lý cần phổ cập rộng rãi.
Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1858/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung; thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1836/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực thừa phát lại thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1859/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực công chứng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 23/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 1857/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.

Giải trừ trách nhiệm của công chức thuế, tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp

Luật số 56/2024/QH15 bổ sung quy định về trách nhiệm của công chức thuế theo hướng giải trừ trách nhiệm cho công chức thuế khi có gian lận trong kê khai, cung cấp thông tin tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp chân chính.

Cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng

Hải Phòng là địa phương luôn nỗ lực, tích cực thực hiện cải cách thủ tục hành chính, với mục tiêu tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, trong đó phải kể đến lĩnh vực cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Điều này được thể hiện rõ nét qua sự quyết tâm, chủ động, sáng tạo trong triển khai, thực hiện các văn bản, quy định nhằm cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân trong bối cảnh chuyển đổi số và những khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết bàn về những vấn đề cơ bản của quyền riêng tư và sự cần thiết phải bảo vệ quyền riêng tư; phân tích các vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân theo pháp luật quốc tế, từ đó đúc kết và đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số.

Theo dõi chúng tôi trên: