Tóm tắt: Từ giá trị cốt lõi của Nhà nước pháp quyền, bài viết phân tích, làm rõ ưu điểm, tồn tại, hạn chế của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và đề xuất các giải pháp tiếp tục đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1. Nhận thức được vị trí, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), nhất là trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể, công tác này luôn được Đảng và Nhà nước coi là bộ phận cấu thành công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; khâu đầu tiên của thi hành pháp luật; thuộc nội dung quản lý nhà nước và là nhiệm vụ quan trọng mà cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, cán bộ, công chức, tổ chức chính trị - xã hội phải triển khai thực hiện. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới”[2]. Người nhấn mạnh: “Triệt để chấp hành mọi chế độ và pháp luật của Nhà nước”[3]; “hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người đều nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; pháp chế chỉ bảo đảm khi các quy phạm pháp luật được thực thi; mọi hành vi vi phạm pháp luật phải bị xử lý”[4]. Theo Người: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó là tuyên truyền thất bại”[5]. Trong quá trình hình thành, phát triển của Bộ, Ngành Tư pháp, công tác tuyên truyền, PBGDPL luôn được xác định là nhiệm vụ quan trọng mà Bộ, ngành phải tham mưu, giúp Chính phủ và chính quyền địa phương triển khai thực hiện. Trong hầu hết các văn kiện Đại hội Đảng, nhất là từ sau đổi mới đến nay, Đảng ta đều đề ra chủ trương, chính sách để tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác PBGDPL nhằm huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Bộ Chính trị đã ban hành các nghị quyết: Số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005; số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005; Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003; Thông báo Kết luận số 74-TB/TW ngày 11/5/2007; Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 để xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, gắn kết đổi mới PBGDPL trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp, cải cách hành chính. Đặc biệt, các bản Hiến pháp nước ta đều quy định công dân có nghĩa vụ phải tôn trọng Hiến pháp, tuân theo pháp luật; phải tuân thủ và chấp hành pháp luật. Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Ngày 20/6/2012, Quốc hội đã ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật; các luật: Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương; các văn bản hướng dẫn đều xác định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước trong bảo đảm và triển khai thực hiện PBGDPL. Trong đó, ghi nhận quyền được thông tin về pháp luật của công dân và biện pháp bảo đảm thực hiện; coi PBGDPL là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt và là nội dung quản lý nhà nước, thuộc trách nhiệm của cơ quan quản lý hành chính nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức; quy định nội dung, hình thức giáo dục pháp luật trong nhà trường; khuyến khích, huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL... Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã ban hành các chương trình hành động để thực hiện các văn bản của Đảng; các chỉ thị, kế hoạch để triển khai thực hiện Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và các văn bản hướng dẫn, nhất là các chương trình, đề án về PBGDPL và dành nguồn lực đầu tư cho công tác PBGDPL, chú trọng các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn chưa tự cân đối được ngân sách.
2. Trong thời kỳ phát triển mới, để phù hợp với quy luật khách quan và xu hướng của thời đại, Đảng và Nhà nước ta nhất quán chủ trương xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền đã đặt ra yêu cầu mới đối với công tác PBGDPL
Thứ nhất, từ đặc trưng là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; Nhân dân làm chủ đất nước; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân quá trình đổi mới PBGDPL phải bảo đảm: (i) Nhân dân vừa là chủ thể thực hiện, vừa là người thụ hưởng; (ii) Mỗi chủ thể phải chủ động, tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật, coi đây là công việc thường xuyên, hằng ngày; không được lấy lý do không biết luật để loại trừ trách nhiệm pháp lý; (iii) PBGDPL không có mục đích nào khác là phục vụ và vì lợi ích tối thượng của Nhân dân; đáp ứng đầy đủ nhu cầu thông tin pháp luật và tạo ra điều kiện thuận lợi nhất để Nhân dân dễ dàng tiếp cận, khai thác và sử dụng pháp luật; (iv) Qua PBGDPL phải nâng cao nhận thức, giáo dục ý thức làm chủ của mỗi chủ thể để mọi người đều nhận thức đầy đủ về quyền, nghĩa vụ; tham gia xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật; (v) Phải có cơ chế, chính sách, biện pháp để khuyến khích, huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL để đây thực sự là công việc của toàn xã hội.
Thứ hai, từ đặc trưng Nhà nước bảo đảm và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân đòi hỏi Nhà nước phải bảo đảm: (i) Ghi nhận đầy đủ quyền được thông tin về pháp luật của con người; (ii) Công khai, minh bạch hệ thống pháp luật để các chủ thể dễ dàng tiếp cận, khai thác, sử dụng; (iii) Thiết lập cơ chế, chính sách để ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền được thông tin về pháp luật; (iv) Chú trọng giáo dục, nâng cao nhận thức về quyền con người, quyền, nghĩa vụ của công dân để mọi người đều thực thi đúng pháp luật, không vi phạm pháp luật hoặc có hành vi xâm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác; (v) Có chính sách, biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương trong tiếp cận hệ thống pháp luật.
Thứ ba, từ đặc trưng Nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật đòi hỏi: (i) Hoạt động công vụ phải tuân thủ, chấp hành và dựa trên pháp luật; các cơ quan, cán bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép; (ii) Cán bộ, công chức phải am hiểu pháp luật chuyên ngành gắn với công vụ được giao; (iii) PBGDPL phải thuộc nội dung quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực; cán bộ, công chức phải giải thích, vận động, giáo dục thuyết phục nhân dân hiểu biết, tuân thủ và chấp hành pháp luật; (iv) Mọi chuẩn mực ứng xử trong xã hội phải dựa trên quy định của pháp luật.
Thứ tư, từ đặc trưng Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất; Hiến pháp và pháp luật phải được thượng tôn, được tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất đòi hỏi: (i) Phải coi trọng giáo dục ý thức tuân thủ, chấp hành, tôn vinh Hiến pháp và pháp luật trong toàn xã hội; tôn trọng các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ quan của công dân; (ii) Các thiết chế và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị phải đặt trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; (iii) Mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật; có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; (iv) Hiến pháp và pháp luật phải được thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất.
Thứ năm, từ đặc trưng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đòi hỏi: (i) Phải bảo đảm sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trong quá trình triển khai PBGDPL; (ii) Phải gắn kết PBGDPL với giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống để hình thành nhân cách con người phát triển toàn diện; (iii) PBGDPL phải là bộ phận không thể tách rời của công tác tuyên giáo, dân vận của hệ thống chính trị để tạo sự thống nhất trong nhận thức và đồng thuận về chính trị; thiết lập, duy trì, củng cố niềm tin, tình cảm của người dân vào thể chế và chế độ; (iv) Tổ chức đảng và đảng viên phải gương mẫu, tự giác, nêu gương trong học tập, tìm hiểu pháp luật; tuân thủ và chấp hành pháp luật; vận động, giáo dục, thuyết phục các chủ thể tự giác tuân thủ, chấp hành pháp luật.
Thứ sáu, từ đặc trưng Nhà nước thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đòi hỏi quá trình đổi mới PBGDPL phải: (i) Phù hợp với xu thế thời đại và tiếp cận chuẩn mực của thế giới; (ii) Tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước để vận dụng sáng tạo trong điều kiện thực tiễn Việt Nam; (iii) Không chỉ chú trọng đến pháp luật quốc gia mà phải quan tâm đến pháp luật quốc tế và pháp luật của các nước có chung đường biên giới; (iv) Không chỉ cho công dân Việt Nam ở trong nước mà còn cho người Việt Nam ở nước ngoài và cho người nước ngoài cư trú tại Việt Nam.
3. Trước các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền như trên,nhìn một cách khái quát cho thấy công tác PBGDPL ở Việt Nam có những ưu điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, việc cung cấp thông tin về pháp luật cho công dân đã được coi trọng. Hoạt động công bố luật, pháp lệnh; ra thông cáo báo chí về văn bản và đăng tải công khai các văn bản pháp luật chuyên ngành trên Cổng/Trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước, các phương tiện thông tin, truyền thông đại chúng, mạng lưới thông tin cơ sở được thực hiện khá nghiêm túc, kịp thời. Cơ sở dữ liệu thông tin về pháp luật được Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng, ngày càng hoàn thiện gắn với ứng dụng công nghệ thông tin; đăng tải hầu hết các văn bản sau khi được ban hành, cả văn bản sửa đổi, bổ sung, hợp nhất; bảo đảm tính công khai, minh bạch và khá đầy đủ để mọi người dễ dàng tiếp cận, khai thác, sử dụng miễn phí (http://congbao.chinhphu.vn; http://quochoi.vn; http://phapdien.moj.gov.vn;http://tulieuvankien.dangcongsan.vn;http://vbpl.vn) và các cơ sở dữ liệu pháp luật khác do tổ chức ngoài Nhà nước xây dựng có thu phí từ người sử dụng (https://thuvienphapluat.vn; https://luatvietnam.vn...).
Thứ hai, các hoạt động giáo dục, đào tạo luật, nghề luật; giáo dục pháp luật trong nhà trường, giáo dục chuyên biệt cho đối tượng đặc biệt được quan tâm, chú trọng hơn, tăng về số lượng và bảo đảm về chất lượng[6]. Nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu, sách tham khảo được rà soát, chỉnh sửa, bổ sung và từng bước chuẩn hóa, đa dạng, phong phú và sát thực tiễn hơn. Đội ngũ nhà giáo dạy pháp luật được chuẩn hóa, thường xuyên được cập nhật, bổ sung kiến thức, kỹ năng mới. Hoạt động đánh giá, kiểm định chất lượng bước đầu được coi trọng đã góp phần quan trọng vào giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nhân cách con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn với giáo dục ý thức tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật và xây dựng văn hóa pháp lý trong xã hội. Đặc biệt, từ năm 2017 môn giáo dục công dân là một môn thi tốt nghiệp trung học phổ thông và là một môn học trong tổ hợp xét tuyển vào một số trường đại học, cao đẳng đã càng khẳng định vai trò, tính đúng hướng của hoạt động này.
Thứ ba, các chủ thể đã nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về trách nhiệm trong PBGDPL, nhất là các cơ quan quản lý, cán bộ, công chức và đại biểu dân cử. Tổ chức bộ máy cán bộ và đội ngũ người làm PBGDPL, nhất là báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật được củng cố, kiện toàn; chất lượng, hiệu quả hoạt động được nâng lên, thực sự là lực lượng nòng cốt trong PBGDPL tại cơ sở. Hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL các cấp và Tổ thư ký thiết thực, hiệu quả hơn, bám sát nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nhất là trong chỉ đạo, hướng dẫn, xây dựng chương trình, kế hoạch; định hướng nội dung, hình thức, chủ đề, điều phối các hoạt động và chia sẻ các nguồn lực. Đã có sự gắn kết chặt chẽ hơn trong triển khai PBGDPL tại địa bàn cơ sở giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, mạng lưới các Tổ hòa giải ở cơ sở và các hoạt động thực tiễn pháp lý của các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực pháp luật, nhất là các tổ chức hành nghề luật sư.
Thứ tư, nội dung PBGDPL từng bước được đổi mới, bên cạnh quy định của pháp luật thực định đã bước đầu quan tâm giáo dục ý thức pháp luật, gương người tốt việc tốt trong tuân thủ, chấp hành pháp luật và một số điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên. Tài liệu PBGDPL đa dạng, phong phú và sát hơn với nhu cầu của từng nhóm đối tượng, nhất là các ấn phẩm, các câu chuyện pháp luật, tình huống pháp lý. Tài liệu công bố luật, pháp lệnh, các đề cương, thông cáo báo chí về văn bản được biên soạn kịp thời, chất lượng được nâng lên, chú trọng mục tiêu chính sách, điểm mới, sửa đổi, bổ sung.
Thứ năm, hình thức PBGDPL phong phú, đa dạng và sát thực hơn với từng lĩnh vực, địa bàn, nhóm đối tượng với nhiều mô hình mới, cách làm sáng tạo, hiệu quả như: Mô hình Ngày Pháp luật; các cuộc thi tìm hiểu pháp luật trong cả nước, từng bộ, ngành, đoàn thể, địa phương; tuyên truyền miệng, tổ chức hội nghị quán triệt, phổ biến văn bản mới… Hoạt động PBGDPL cho đối tượng đặc thù được quan tâm hơn, gắn với việc triển khai thực hiện các chương trình, đề án và các hoạt động giáo dục chuyên biệt. Các hoạt động PBGDPL, trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số, người khuyết tật, trẻ em, nạn nhân bạo lực gia đình, người lao động trong doanh nghiệp được quan tâm đẩy mạnh.
Thứ sáu, đã từng bước hình thành trong đảng viên, cán bộ thói quen chủ động nghiên cứu, học tập, tìm hiểu và nắm vững pháp luật, tuân thủ, chấp hành Hiến pháp và pháp luật trong thực thi công vụ; tuyên truyền, vận động, giáo dục người dân thực thi pháp luật. Việc học tập, cập nhật kiến thức pháp luật mới trở thành nhiệm vụ thường xuyên, hằng năm và là chế độ bắt buộc của mỗi đảng viên, cán bộ. Đặc biệt, người dân đã tích cực, chủ động hơn trong tự học tập, tìm hiểu pháp luật; bước đầu hình thành thói quen đối chiếu giữa hành vi với các quy định của pháp luật khi tham gia các quan hệ xã hội. Tình hình vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích chung, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể do thiếu hiểu biết pháp luật có xu hướng giảm. Người dân đã biết cách sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Ý thức tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật trong cán bộ và nhân dân được nâng lên, góp phần tích cực vào ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Thứ bảy, nguồn lực đầu tư cho công tác PBGDPL, nhất là kinh phí được quan tâm, chú trọng hơn. Chính sách xã hội hóa, huy động các nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL bước đầu được triển khai thực hiện, nhất là các hỗ trợ, tài trợ của doanh nghiệp, cá nhân qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, hưởng ứng Ngày Pháp luật hằng năm. Đã phát huy được vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong tham gia tuyên truyền, phổ biến, vận động thành viên, hội viên tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; thu hút, huy động được cơ quan thông tin, truyền thông đại chúng, báo chí, tổ chức hành nghề luật tham gia PBGDPL, nhất là các tổ chức hành nghề luật sư và các luật sư. Các thẩm phán, điều tra viên, kiểm sát viên, chấp hành viên, công chức nhà nước trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc thực thi công vụ đã cung cấp các thông tin về pháp luật, hướng dẫn, giải pháp các vướng mắc về pháp luật. Tòa án nhân dân đã tăng cường các hoạt động xét xử lưu động để qua đó tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân.
4. Bên cạnh những ưu điểm và thành tựu đã đạt được là chủ yếu, công tác PBGDPL cũng đã bộc bộ một số tồn tại, hạn chế sau:
Một là, nội hàm khái niệm PBGDPL chưa được nhận thức đầy đủ, cả về lý luận và pháp lý nên còn nhiều cách hiểu chưa thống nhất. Do chưa rõ sự tương đồng và khác biệt giữa thông tin pháp luật với giáo dục pháp luật, truyền thông chính sách, tuyên truyền chính trị nên các vấn đề này vẫn nằm chung trong cơ chế điều chỉnh của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và chưa có sự phân định sự khác biệt về nội dung, mức độ và phạm vi điều chỉnh; thậm chí còn có sự trùng lắp trong điều chỉnh pháp luật giữa Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (về công bố luật, pháp lệnh, công báo, truyền thông chính sách); Luật Tiếp cận thông tin (về quyền được thông tin của công dân và các biện pháp bảo đảm thực hiện); Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp.
Hai là, hiện có nhiều cơ sở dữ liệu văn bản, nguồn tài liệu PBGDPL được triển khai xây dựng nhưng còn thiếu sự gắn kết, liên thông, chia sẻ thông tin nên dẫn đến trùng lắp về hoạt động, gây lãng phí về thời gian, công sức, nguồn lực. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong PBGDPL chưa tương xứng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng 4.0. Một số văn bản được cập nhật chậm hoặc không được cập nhật hoặc không rõ hiệu lực. Việc truy cập, khai thác, sử dụng hệ cơ sở dữ liệu văn bản chưa tiện dụng, nhất là trong tra cứu, tìm kiếm các QPPL đang có hiệu lực tại một thời điểm, cho sự kiện, tình huống cụ thể và xử lý xung đột pháp luật khi có sự mâu thuẫn, chồng chéo. Hệ cơ sở dữ liệu văn bản do các đơn vị ngoài Nhà nước xây dựng tuy khá đầy đủ, tiện dụng trong tra cứu hiệu lực và liên kết giữa các văn bản nhưng có thu phí, thông tin pháp luật lại không chính thức nên không phải ai cũng dễ dàng tiếp cận, nhất là người dân ở vùng sâu, vùng xa hoặc không có khả năng sử dụng công nghệ thông tin hoặc có bất đồng về ngôn ngữ, không hiểu biết tiếng phổ thông. Trong khi đó, tủ sách pháp luật, mạng lưới thông tin cơ sở thiếu thốn, lạc hậu; có tài liệu PBGDPL trích dẫn không rõ nguồn nên không rõ hiệu lực áp dụng; mạng lưới truyền thanh cơ sở thiếu nguồn tài liệu để cung cấp thông tin pháp luật đến người dân.
Ba là, hoạt động giáo dục pháp luật trong nhà trường chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, gắn với xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, cả về nhân cách, đạo đức, tâm hồn, trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật. Nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu, sách tham khảo còn nặng về lý thuyết, khô cứng khi dựa trên quy định của pháp luật, chưa gắn kết lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành và chậm được rà soát, cập nhật, bổ sung nội dung kiến thức, quy định mới; chưa quan tâm đúng mức đến giáo dục gương người tốt, việc tốt, ý thức và thói quen tự giác học tập, tìm hiểu, tuân thủ và chấp hành pháp luật, bồi dưỡng kỹ năng xử sự phù hợp với pháp luật. Đội ngũ giáo viên dạy môn đạo đức, giáo dục công dân, pháp luật đại cương ở nhiều nơi chưa được đào tào chuẩn kiến thức pháp luật trong khi việc cập nhật kiến thức, quy định mới và kỹ năng chưa được liên tục. Việc đánh giá, kiểm định chất lượng chưa dựa trên tiêu chí cụ thể có thể lượng hóa ở mức độ tối đa. Phương pháp dạy và học pháp luật chậm được đổi mới, thiếu linh hoạt, sáng tạo và chưa gắn với các tình huống, vụ việc, sự kiện cụ thể, gắn với thực tiễn cuộc sống của người dân nên chưa thu hẹp được khoảng cách giữa quy định của pháp luật với thực tiễn đời sống, chưa sát với đặc thù, tính chất và nhu cầu và chưa phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học.
Bốn là, cách thức triển khai các hoạt động PBGDPL chuyên biệt, qua hoạt động thực tiễn pháp lý của các chủ thể vẫn nặng tính truyền thống, chủ yếu xuất phát từ mong muốn của cơ quan nhà nước áp đặt lên xã hội để phục vụ nhu cầu quản lý mà chưa xuất phát từ mong muốn của người dân, gắn với quyền, nghĩa vụ của chủ thể trong tình huống, sự kiện cụ thể. Tài liệu, đề cương PBGDPL biên soạn chậm, chất lượng chưa sâu; hình thức chưa đa dạng và phong phú; chủ yếu tập trung giới thiệu sự cần thiết phải ban hành, quan điểm xây dựng, mục tiêu chính sách và một số nội dung mới, sửa đổi, bổ sung mang tính định hướng, dành cho báo cáo viên, tuyên truyền viên, cán bộ, công chức thi hành văn bản mà chưa gắn với các hành vi bị nghiêm cấm, chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể, thậm chí còn thiếu sự phân hóa về nội dung và phương pháp dựa trên đặc điểm, tính chất của từng đối tượng, địa bàn, lĩnh vực; chưa gắn kết và đặt trong sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật nên rất khó cho người dân trong áp dụng, nhất là khi người dân chưa có đủ kỹ năng nghiên cứu, cập nhật các quy định pháp luật và vận dụng, sử dụng pháp luật.
Năm là, các hoạt động PBGDPL được triển khai theo phong trào và nặng tính hình thức vẫn còn ở một số nơi hoặc mới chỉ tập trung vào một số số chiến dịch, thời điểm nhất định; chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều. Đến nay vẫn chưa đạt được mục tiêu tạo chuyển biến căn bản, toàn diện và bền vững về ý thức tôn trọng pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân, nhất là trong ý thức tự giác, chủ động và tích cực học tập, tìm hiểu pháp luật trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Vẫn còn khoảng cách lớn giữa mục tiêu chính sách đề ra trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật với khả năng hiện thực hóa trong thực tiễn. Tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm, khiếu nại, tố cáo diễn biến phức tạp, cả về phạm vi, tính chất, mức độ, nổi lên là bạo lực gia đình, bạo lực học đường, ô nhiễm mỗi trường, tham nhũng, lãng phí. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật, thiếu tu dưỡng rèn luyện, chưa nêu gương, thậm chí còn vi phạm pháp luật, ngay cả trong cán bộ chủ chốt, các cơ quan bảo vệ pháp luật và đội ngũ thi hành pháp luật, giáo viên, cán bộ quản lý.
Sáu là, nguồn lực đầu tư, bảo đảm cho công tác PBGDPL phân bố chưa đồng đều giữa các địa phương và chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ, nhất là kinh phí bảo đảm triển khai thực hiện các chương trình, đề án về PBGDPL và PBGDPL cho nhóm các đối tượng đặc thù, tại các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách. Nhiều thông tin, tài liệu PBGDPL không chính thức, thiếu kiểm duyệt về nội dung, hình thức thể hiện, nhất là thông tin trên internet, mạng xã hội gây khó khăn cho người dân trong tiếp cận, tìm hiểu và sử dụng.
5. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tồn tại, hạn chế nhưng chủ yếu là do:
Về khách quan, xuất phát điểm của nước ta thấp. Hoạt động PBGDPL khó thu hút, huy động các nguồn lực tham gia theo chủ trương xã hội hóa. Hệ thống pháp luật phức tạp, thiếu ổn định. Một số chính sách, quy định mới chưa nhận được sự đồng thuận cao từ xã hội; nhu cầu, kỳ vọng và đòi hỏi đối với công tác PBGDPL rất lớn, để làm tốt phải kiên trì, thường xuyên, liên tục; vừa làm, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm. Một bộ phận người dân và cán bộ nhận thức pháp luật hạn chế, chưa có thói quen chủ động tự giác học tập, tìm hiểu, chấp hành pháp luật; việc xử lý vi phạm chưa nghiêm. Một số chủ trương, chính sách chậm được thể chế hóa, cụ thể hóa hoặc triển khai chưa thường xuyên; một số quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật đã bộc lộ hạn chế; thiếu khả thi hoặc mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản khác. Chương trình, đề án về PBGDPL được ban hành nhiều, mục tiêu lớn nhưng chưa có tính hệ thống, thiếu sự điều phối hoạt động, còn trùng lắp về hoạt động, đối tượng, địa bàn; quá trình thực hiện rất chậm, thiếu nguồn lực bảo đảm và cơ chế đánh giá chất lượng, hiệu quả; chưa có tính ổn định, bền vững cũng như sự kế thừa, phát triển các kết quả đạt được sau khi chương trình, đề án kết thúc. Việc hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, xây dựng và nhân rộng các mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả chưa được quan tâm nên thiếu điều chỉnh linh hoạt; nghiên cứu, tham khảo và học tập kinh nghiệm nước ngoài chưa được chú trọng đúng mức.
Về chủ quan: Tư duy, nhận thức về PBGDPL chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của xã hội và nhu cầu tiếp cận thông tin, tìm hiểu pháp luật của công dân. Vẫn còn bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, cơ quan, đơn vị chưa quan tâm đúng mức đến PBGDPL, nhất là trong quản lý nhà nước chuyên ngành nên thiếu hướng dẫn, chỉ đạo; chất lượng nguồn nhân lực chưa đồng đều, chủ yếu kiêm nhiệm; mối quan hệ phối hợp trong PBGDPL chưa hiệu quả; tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa theo kịp yêu cầu sự phát triển của thực tiễn.
6. Để tiếp tục đổi mới công tác PBGDPL đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền hướng đến mục tiêu công khai, minh bạch hệ thống pháp luật, thực hiện đầy đủ quyền được thông tin về pháp luật; tạo chuyển biến căn bản và toàn diện trong nhận thức pháp luật, xây dựng ý thức, lối sống tôn trọng, nghiêm chỉnh tuân thủ, chấp hành Hiến pháp và pháp luật trong toàn xã hội nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực, xây dựng, bồi đắp ý thức pháp quyền của mỗi người dân và toàn xã hội, cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đổi mới tư duy, cách tiếp cận về PBGDPL so với cách tiếp cận truyền thống để xác định đúng bản chất của PBGDPL
- Làm rõ nội hàm và các thành tố cấu thành PBGDPL; xác định rõ bản chất, đặc trưng của nhóm các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về PBGDPL. Theo đó, PBGDPL bao gồm các thành tố: (i) Thông tin về pháp luật; (ii) Truyền thông chính sách; (iii) Giáo dục pháp luật; (iv) Các hoạt động PBGDPL chuyên biệt; (v) Hoạt động tự học tập, tìm hiểu pháp luật của các chủ thể. Tương ứng với các thành tố đó, cần bóc tách, làm rõ sự tương đồng, khác biệt để xây dựng quy chế pháp lý điều chỉnh phù hợp. Bên cạnh các hoạt động PBGDPL thể hiện sự tác động từ phía Nhà nước và xã hội lên các chủ thể mang tính áp đặt, các chủ thể tiếp cận thụ động thì cần phải đề cao trách nhiệm tự nghiên cứu, học tập, tìm hiểu pháp luật của các chủ thể để phát huy tính năng động, sáng tạo và tích cực, chủ động từ phía các chủ thể.
- Chuyển đổi mô hình từ chủ yếu tập trung tuyên truyền, phổ biến quy định pháp luật mang tính áp đặt từ phía Nhà nước và xã hội đến chủ thể sang mô hình chú trọng giáo dục ý thức pháp luật, có sự kết hợp giữa yêu cầu mang tính áp đặt từ Nhà nước xuống xã hội theo nội dung của văn bản, quy định, với nhu cầu tìm hiểu pháp luật của người dân gắn với tình huống, vụ việc, sự kiện pháp lý cụ thể liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân (kết hợp giữa tư duy pháp lý của quản lý với tư duy pháp lý kiểu luật sư); kết hợp giữa giáo dục kiến thức, quy định của pháp luật với giáo dục kỹ năng, thái độ và hành vi ứng xử dựa trên pháp luật; tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật tiến tới Nhà nước và đội ngũ công chức chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm.
- Cần nhấn mạnh nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong tự học tập, tìm hiểu và phải nắm vững pháp luật trong thi hành pháp luật; thực hiện đúng pháp luật như là trách nhiệm pháp lý bắt buộc để “một người chỉ được nhân danh pháp luật để thực thi pháp luật khi có tri thức hiểu biết đầy đủ về pháp luật”. Việc học tập, tìm hiểu và cập nhật các quy định mới ban hành phải trở thành chế độ bắt buộc. Cán bộ, công chức làm việc trong lĩnh vực nào phải nắm vững các chuẩn mực, quy tắc và am hiểu sâu sắc pháp luật trong lĩnh vực đó; phải gương mẫu tự giác tuân thủ, chấp hành luật; thực thi công vụ trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; phải đồng thời là báo cáo viên pháp luật để tuyên truyền, vận động, giải thích, thuyết phục người dân tuân thủ, chấp hành pháp luật; coi đây là tiêu chí đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ công tác.
- Định rõ vị trí, vai trò của PBGDPL trong Nhà nước pháp quyền và trong giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, tuyên giáo, vận động quần chúng; trong xây dựng, thi hành và bảo vệ pháp luật. PBGDPL không chỉ là bộ phận của giáo dục tư tưởng, chính trị, tuyên giáo, dân vận của cả hệ thống chính trị để tạo sự thống nhất về nhận thức và đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin của Nhân dân với chủ trương, chính sách, pháp luật mà còn là khâu đầu tiên của thi hành chính sách, pháp luật nhằm đưa chính sách pháp luật vào cuộc sống; là chất liệu đầu vào của xây dựng chính sách pháp luật, góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật. Qua thi hành và bảo vệ pháp luật phải hướng đến mục tiêu giúp Nhân dân nhận thức rõ về tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, thấy rõ vị trí, vai trò và tính nghiêm minh của chính sách pháp luật; thấy được những lợi ích của việc tuân thủ và chấp hành pháp luật để xây dựng một xã hội thượng tôn pháp luật, suy tôn pháp quyền, để các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước thực sự thẩm thấu trong hành vi, ý thức của mỗi người.
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu, nhận diện, làm rõ phạm vi trách nhiệm của Nhà nước trong phổ biến, giáo dục pháp luật và huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia vào công tác này
Với thuộc tính của mình, Nhà nước phải tập trung nguồn lực để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ rất quan trọng như quản lý, duy trì xã hội phát triển trong trật tự để không đi đến đổ vỡ; kiến tạo sự phát triển xã hội để bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững; thực hiện tốt các chức năng xã hội để phục vụ cộng đồng, xã hội, nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương để bảo đảm công bằng xã hội. Nhà nước phải thực hiện tốt chức năng tổ chức và quản lý các quá trình xã hội để chúng duy trì và phát triển ổn định trong vòng trật tự; khuyến khích, huy động, khai thông được mọi tiềm năng, nguồn lực từ xã hội để tham gia để giải quyết những công việc chung của toàn xã hội. Nhà nước buộc phải lựa chọn thứ tự ưu tiên cho những công việc cấp bách mà xã hội thực sự cần nhưng chưa có hoặc không có chủ thể nào đảm trách, trọng tâm là hoạch định và thực thi chính sách pháp luật quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quốc phòng, đối ngoại… Do vậy, Nhà nước cần tập trung vào: (i) Cung cấp thông tin về pháp luật (nhất là thông tin điểm mới về chính sách pháp luật, sự thay đổi, điều chỉnh, bổ sung về chính sách pháp luật); (ii) Thực hiện truyền thông chính sách trong tất cả các khâu của chu trình chính sách công (nhất là lấy ý kiến về chính sách; đối thoại chính sách khi người dân chưa rõ hoặc cần yêu cầu giải thích chính thức; cung cấp thông tin chính thức khi có khủng hoảng truyền thông và định hướng dư luận xã hội…); (iii) Trợ giúp pháp lý cho nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội (gắn với các tình huống, vụ việc, sự kiện cụ thể liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân…); (iv) Giáo dục pháp luật trong trường học thông qua chương trình, giáo trình, tài liệu chuẩn hóa (trọng tâm là giáo dục kiến thức, kỹ năng, thái độ, xây dựng ý thức, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật và văn hóa pháp lý…); (v) PBGDPL thông qua cán bộ, công chức trong thực thi công vụ và đội ngũ báo cáo viên pháp luật; (vi) Định ra nguyên tắc, chế độ, chính sách, tiêu chuẩn chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL; khuyến khích, huy động và từng bước đa dạng hóa các chủ thể tham gia PBGDPL theo chủ trương xã hội hóa nhằm thúc đẩy sự hình thành, phát triển thị trường PBGDPL trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng về chất lượng dịch vụ, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt; tiến tới mỗi người dân đều có nghĩa vụ và trách nhiệm phải học tập, tìm hiểu, nắm vững pháp luật và tích cực tham gia PBGDPL.
Thứ ba, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong phổ biến, giáo dục pháp luật để tận dụng những lợi thế từ cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0
- Số hóa đầy đủ các văn bản pháp luật, văn bản hợp nhất; tài liệu nghiệp vụ PBGDPL, nhất là tài liệu tập huấn chuyên sâu về các văn bản mới, các ấn phẩm khác, các tài liệu họp báo, ra thông cáo báo chí về văn bản; hồ sơ tài liệu trình ban hành văn bản. Cập nhật đầy đủ, có hệ thống các thông tin nêu trên trong Cổng thông tin PBGDPL quốc gia với tư cách là thiết chế cung cấp thông tin pháp luật chính thức với các trường thông tin đa dạng, phù hợp với nhu cầu tìm hiểu của Nhân dân nói chung và từng nhóm đối tượng đặc thù nói riêng.
- Xây dựng và số hóa các Bộ pháp điển, không chỉ bao gồm các quy phạm pháp luật đang có hiệu lực mà còn chứa đựng các quy phạm pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc chấm dứt hiệu lực để tích hợp, kết nối, liên thông với Cổng thông tin PBGDPL quốc gia. Xây dựng các bộ tập hợp hóa văn bản pháp luật gắn với nghiên cứu, bình luận chuyên sâu của các chuyên gia để làm rõ nội dung, tinh thần của văn bản có so sánh, đối chiếu với các chuẩn mực quốc tế và dựa trên cơ sở lý luận của các học thuyết pháp lý.
- Xây dựng và số hóa các tài liệu PBGDPL dùng chung trong phạm vi cả nước; các tài liệu PBGDPL chuyên biệt cho từng nhóm đối tượng, địa bàn, lĩnh vực cụ thể; tài liệu PBGDPL chuyên sâu cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật và cán bộ làm công tác quản lý nhà nước. Kết nối, liên thông, chia sẻ nguồn thông tin, tư liệu PBGDPL từ Cổng thông tin PBGDPL quốc gia đến các cơ sở dữ liệu khác để người dân dễ dàng tiếp cận, khai thác, sử dụng.
- Xây dựng Cổng thông tin điện tử PBGDPL quốc gia kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu với Cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia; tủ sách pháp luật điện tử quốc gia; Công báo điện tử và các cơ sở dữ liệu pháp luật khác; với Trang thông tin PBGDPL trên Cổng thông tin điện tử của bộ, ngành, đoàn thể, địa phương. Đây sẽ là kênh cung cấp thông tin pháp luật chính thức của Nhà nước; là nguồn tích hợp, trích xuất các thông tin về pháp luật cho cơ sở dữ liệu khác. Bên cạnh các dữ liệu văn bản, cần nghiên cứu, bổ sung các bản án, quyết định của Tòa án chứa đựng các án lệ, các bình luận chuyên sâu của các chuyên gia…
- Tổ chức các cuộc thi trực tuyến tìm hiểu kiến thức pháp luật; thi đố vui giải đáp tình huống pháp lý; thi tìm kiếm giải pháp đổi mới công tác PBGDPL, thi sáng tác các tiểu phẩm PBGDPL để có được tài liệu PBGDPL có chất lượng tốt nhất làm cơ sở để xây dựng các tiểu phẩm tuyên truyền. Xây dựng các bài giảng điện tử, phát triển các phòng học trực tuyến để người dân, cán bộ có nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu, học tập có thể truy cập ở mọi lúc, mọi nơi. Thiết lập cơ chế để gia tăng sự tương tác giữa các chủ thể trong quá trình tiếp cận, khai thác và sử dụng để kịp thời giải tỏa vướng mắc. Nghiên cứu, sử dụng mạng xã hội để tăng cường truyền thông, PBGDPL để tạo sức lan tỏa xã hội; thu thập thông tin, nắm bắt nhu cầu và phản ứng của dư luận xã hội để có định hướng tương tác, điều chỉnh cho phù hợp nhằm định hướng dư luận.
- Thiết lập kênh đối thoại chính thức, trực tuyến giữa các cơ quan nhà nước với công dân, doanh nghiệp để thu thập, phân loại, xử lý và giải đáp kịp thời các thắc mắc của người dân, doanh nghiệp trong thi hành pháp luật.
Thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Đây là giải pháp rất quan trọng trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Thực tiễn cho thấy sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cần sớm tổng kết, đánh giá việc thực hiện chủ trương, chính sách về PBGDPL, trọng tâm là tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003; Thông báo Kết luận số 74-TB/TW ngày 11/5/2007, Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư. Trên cơ sở phân tích dự báo yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước, nhất là trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền để đề ra mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục phát triển công tác PBGDPL trong thời gian tới. Đề xuất Bộ Chính trị/Ban Bí thư ban hành nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PBGDPL nâng cao ý thức tuân thủ và chấp hành pháp luật trong cán bộ, đảng viên và nhân dân hoặc xây dựng, ban hành Chiến lược tổ chức thi hành pháp luật/Chiến lược về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong đó có nội dung đổi mới công tác PBGDPL; gắn với đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, với giáo dục và đào tạo; tuyên truyền, vận động, giác ngộ quần chúng của Đảng và cả hệ thống chính trị; với công tác xây dựng, thi hành và bảo vệ pháp luật. Trọng tâm là tiếp tục giao nhiệm vụ cho cấp ủy, tổ chức đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức quán triệt, phổ biến nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của PBGDPL; tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách; củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức PBGDPL; nâng cao hiệu quả công tác phối hợp và tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện.
Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về phổ biến, giáo dục pháp luật, trọng tâm là tổng kết việc thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Về cách thức tiếp cận PBGDPL cần dựa trên tư duy tiếp cận dựa trên quyền và bảo đảm thực hiện quyền, trọng tâm là quyền được thông tin về pháp luật; được giáo dục ý thức pháp luật để hình thành nhân cách con người phát triển toàn diện. Quyền được thông tin về pháp luật phải là quyền con người chứ không phải chỉ là quyền công dân như hiện nay bởi lẽ công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đều có nghĩa vụ phải tuân thủ, chấp hành Hiến pháp, pháp luật Việt Nam. Về nội dung, quyền được thông tin về pháp luật bao gồm: (i) Quyền tự do tìm kiếm thông tin pháp luật; (ii) Quyền được biết thông tin về những nội dung sửa đổi, bổ sung, quy định mới; các hành vi bị nghiêm cấm và chế tải xử lý đối với hành vi vi phạm; (iii) Quyền được nêu ý kiến, bày tỏ quan điểm, thái độ trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Việc sửa đổi, bổ sung Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật cần theo hướng sau:
- Nhận diện đầy đủ về khái niệm, đặc điểm của PBGDPL; phân định rõ sự tương đồng và khác biệt giữa thông tin về pháp luật với giáo dục pháp luật, với truyền thông chính sách, tuyên truyền, giáo dục ý thức chính trị, các hoạt động PBGDPL chuyên biệt thông qua các hoạt động thực tế pháp lý của các chủ thể.
- Về đối tượng điều chỉnh: Đó là các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động PBGDPL, gắn với ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền được thông tin về pháp luật của con người; bảo đảm sự tôn trọng, tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật của các chủ thể đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật; các thiết chế trong hệ thống chính trị và toàn xã hội vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật để bảo đảm cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất và phát huy đầy đủ vai trò điều chỉnh trong đời sống xã hội; định rõ phạm vi trách nhiệm của Nhà nước trong PBGDPL.
- Về mức độ, phạm vi và phương pháp: Hoạt động PBGDPL phải được điều chỉnh ở tầm cao nhất dưới hình thức văn bản luật; bảo đảm sự kết hợp giữa phương pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành (đối với các hành vi bị nghiêm cấm, các nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của các chủ thể), với phương pháp giáo dục, thuyết phục, động viên, khuyến khích (trong phát huy ý thức tự giác, tích cực, chủ động của các chủ thể trong học tập, tìm hiểu pháp luật, trong tuân thủ, chấp hành Hiến pháp và pháp luật và tham gia PBGDPL cho cán bộ và nhân dân).
- Về nội dung điều chỉnh: Tập trung vào các vấn đề như: (i) Chính sách về PBGDPL; (ii) Các nguyên tắc PBGDPL; (iii) Các hành vi bị nghiêm cấm và chế tài xử lý; (iv) Địa vị pháp lý của các chủ thể (từ người được PBGDPL đến người thực hiện PBGDPL); (v) Nội dung, hình thức PBGDPL; (vi) Hoạt động PBGDPL và các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL; (vii) Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong PBGDPL; (viii) Các điều kiện và nguồn lực bảo đảm thực hiện công tác PBGDPL; (ix) Quản lý nhà nước về PBGDPL.
- Về nguồn lực và điều kiện bảo đảm: Làm rõ cơ sở của việc bố trí, phân bổ các nguồn lực; điều kiện bảo đảm thực hiện PBGDPL và tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Hoàn thiện các quy định về nguồn lực bảo đảm cho công tác PBGDPL; có chính sách hỗ trợ đối với các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách và chính sách xã hội hóa, huy động các nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL. Cần dự liệu đầy đủ nguồn nhân lực và kinh phí, cơ sở vật chất bảo đảm triển khai công tác PBGDPL trong tình hình mới, nhất là tại các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn chưa tự cân đối được ngân sách cũng như trong bảo đảm triển khai chủ trương, chính sách về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động PBGDPL.
- Về hiệu quả điều chỉnh: Đó là sự chuyển biến tích cực trong nhận thức, trong hành vi, trong thái độ, trong tình cảm và trong ứng xử của các chủ thể đối với pháp luật trước và sau khi điều chỉnh bằng pháp luật so với chi phí và nguồn lực đầu tư cũng như những tác động mang tính xã hội lên tính bền vững của tình hình ổn định xã hội. Hiệu quả điều chỉnh được đánh giá dựa trên một số tiêu chí: (i) Mức độ thẩm thấu của ý thức pháp quyền trong đời sống xã hội; (ii) Mức độ và tình hình vi phạm pháp luật trong xã hội từ phía các chủ thể do thiếu hiểu biết pháp luật; (iii) Mức độ và tình hình các chủ thể tự giác, chủ động học tập, tìm hiểu pháp luật; (iv) Mức độ và tình hình các chủ thể tích cực, tự giác và chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý; (v) Mức độ và tình hình các chủ thể pháp luật tham gia quản lý nhà nước và quản lý xã hội; (vi) Mức độ hoàn thiện và tính ổn định của hệ thống pháp luật; (vii) Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước và của địa phương…
Thứ sáu, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác PBGDPL, nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước, các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, bảo đảm cả về số lượng và chất lượng, đủ năng lực đáp ứng nhu cầu PBGDPL của Nhân dân. Tiếp tục đổi mới công tác bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ, chú trọng các kỹ năng mới và giải đáp vướng mắc nảy sinh từ thực tiễn triển khai công tác PBGDPL. Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp, chú trọng lồng ghép trong PBGDPL, nhất là trong triển khai các chương trình phối hợp công tác; có giải pháp đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL các cấp và các Ban Thư ký. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về PBGDPL gắn với xây dựng, nhân rộng các mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả; nghiên cứu, xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các Bộ Tiêu chí đánh giá hiệu quả: (i) Công tác PBGDPL; (ii) Thực hiện các đề án, chương trình về PBGDPL; (iii) Đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ bảy, tiếp tục đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức PBGDPL phù hợp với từng nhóm đối tượng, địa bàn, lĩnh vực. Đổi mới thông tin về pháp luật đáp ứng yêu cầu triển khai thực hiện Luật Tiếp cận thông tin trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học 4.0 và truyền thông chính sách trong chu trình chính sách công. Đổi mới công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trọng tâm là nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy và học pháp luật trong nhà trường; chuẩn hóa nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu dạy và học pháp luật trong nhà trường; đổi mới nội dung, hình thức giáo dục, nhất là qua các hoạt động giáo dục ngoại khóa ngoài giờ lên lớp, chú trọng giáo dục kỹ năng, thái độ ứng xử phù hợp với chuẩn mực pháp luật, phát huy vai trò chủ động tham gia của người học. Gắn kết chặt chẽ hơn hoạt động PBGDPL với hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở qua các vụ việc, tình huống, sự kiện cụ thể. Chú trọng PBGDPL qua hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và trong triển khai công tác tuyên giáo, dân vận của Đảng và tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân của các tổ chức đoàn thể xã hội. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL trên các phương tiện truyền thông đại chúng, các cơ quan báo chí nhất là truyền thông số, đa phương tiện để gia tăng sự tương tác giữa các chủ thể, cung cấp thông tin chính xác, nhanh nhạy, kịp thời và đa chiều.
Thứ tám, bảo đảm đủ nguồn lực cho công tác PBGDPL, nhất là kinh phí, cơ sở vật chất và trang thiết bị, phương tiện làm việc. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về nguồn lực bảo đảm cho công tác PBGDPL; chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ người làm công tác PBGDPL; chính sách xã hội hóa, huy động các nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL. Nghiên cứu, bổ sung tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí trong công tác PBGDPL./.
1. Nhận thức được vị trí, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), nhất là trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể, công tác này luôn được Đảng và Nhà nước coi là bộ phận cấu thành công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; khâu đầu tiên của thi hành pháp luật; thuộc nội dung quản lý nhà nước và là nhiệm vụ quan trọng mà cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, cán bộ, công chức, tổ chức chính trị - xã hội phải triển khai thực hiện. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới”[2]. Người nhấn mạnh: “Triệt để chấp hành mọi chế độ và pháp luật của Nhà nước”[3]; “hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người đều nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; pháp chế chỉ bảo đảm khi các quy phạm pháp luật được thực thi; mọi hành vi vi phạm pháp luật phải bị xử lý”[4]. Theo Người: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó là tuyên truyền thất bại”[5]. Trong quá trình hình thành, phát triển của Bộ, Ngành Tư pháp, công tác tuyên truyền, PBGDPL luôn được xác định là nhiệm vụ quan trọng mà Bộ, ngành phải tham mưu, giúp Chính phủ và chính quyền địa phương triển khai thực hiện. Trong hầu hết các văn kiện Đại hội Đảng, nhất là từ sau đổi mới đến nay, Đảng ta đều đề ra chủ trương, chính sách để tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác PBGDPL nhằm huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Bộ Chính trị đã ban hành các nghị quyết: Số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005; số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005; Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003; Thông báo Kết luận số 74-TB/TW ngày 11/5/2007; Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 để xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, gắn kết đổi mới PBGDPL trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp, cải cách hành chính. Đặc biệt, các bản Hiến pháp nước ta đều quy định công dân có nghĩa vụ phải tôn trọng Hiến pháp, tuân theo pháp luật; phải tuân thủ và chấp hành pháp luật. Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Ngày 20/6/2012, Quốc hội đã ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật; các luật: Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương; các văn bản hướng dẫn đều xác định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước trong bảo đảm và triển khai thực hiện PBGDPL. Trong đó, ghi nhận quyền được thông tin về pháp luật của công dân và biện pháp bảo đảm thực hiện; coi PBGDPL là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt và là nội dung quản lý nhà nước, thuộc trách nhiệm của cơ quan quản lý hành chính nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức; quy định nội dung, hình thức giáo dục pháp luật trong nhà trường; khuyến khích, huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL... Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã ban hành các chương trình hành động để thực hiện các văn bản của Đảng; các chỉ thị, kế hoạch để triển khai thực hiện Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và các văn bản hướng dẫn, nhất là các chương trình, đề án về PBGDPL và dành nguồn lực đầu tư cho công tác PBGDPL, chú trọng các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn chưa tự cân đối được ngân sách.
2. Trong thời kỳ phát triển mới, để phù hợp với quy luật khách quan và xu hướng của thời đại, Đảng và Nhà nước ta nhất quán chủ trương xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền đã đặt ra yêu cầu mới đối với công tác PBGDPL
Thứ nhất, từ đặc trưng là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; Nhân dân làm chủ đất nước; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân quá trình đổi mới PBGDPL phải bảo đảm: (i) Nhân dân vừa là chủ thể thực hiện, vừa là người thụ hưởng; (ii) Mỗi chủ thể phải chủ động, tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật, coi đây là công việc thường xuyên, hằng ngày; không được lấy lý do không biết luật để loại trừ trách nhiệm pháp lý; (iii) PBGDPL không có mục đích nào khác là phục vụ và vì lợi ích tối thượng của Nhân dân; đáp ứng đầy đủ nhu cầu thông tin pháp luật và tạo ra điều kiện thuận lợi nhất để Nhân dân dễ dàng tiếp cận, khai thác và sử dụng pháp luật; (iv) Qua PBGDPL phải nâng cao nhận thức, giáo dục ý thức làm chủ của mỗi chủ thể để mọi người đều nhận thức đầy đủ về quyền, nghĩa vụ; tham gia xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật; (v) Phải có cơ chế, chính sách, biện pháp để khuyến khích, huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL để đây thực sự là công việc của toàn xã hội.
Thứ hai, từ đặc trưng Nhà nước bảo đảm và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân đòi hỏi Nhà nước phải bảo đảm: (i) Ghi nhận đầy đủ quyền được thông tin về pháp luật của con người; (ii) Công khai, minh bạch hệ thống pháp luật để các chủ thể dễ dàng tiếp cận, khai thác, sử dụng; (iii) Thiết lập cơ chế, chính sách để ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền được thông tin về pháp luật; (iv) Chú trọng giáo dục, nâng cao nhận thức về quyền con người, quyền, nghĩa vụ của công dân để mọi người đều thực thi đúng pháp luật, không vi phạm pháp luật hoặc có hành vi xâm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác; (v) Có chính sách, biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương trong tiếp cận hệ thống pháp luật.
Thứ ba, từ đặc trưng Nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật đòi hỏi: (i) Hoạt động công vụ phải tuân thủ, chấp hành và dựa trên pháp luật; các cơ quan, cán bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép; (ii) Cán bộ, công chức phải am hiểu pháp luật chuyên ngành gắn với công vụ được giao; (iii) PBGDPL phải thuộc nội dung quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực; cán bộ, công chức phải giải thích, vận động, giáo dục thuyết phục nhân dân hiểu biết, tuân thủ và chấp hành pháp luật; (iv) Mọi chuẩn mực ứng xử trong xã hội phải dựa trên quy định của pháp luật.
Thứ tư, từ đặc trưng Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất; Hiến pháp và pháp luật phải được thượng tôn, được tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất đòi hỏi: (i) Phải coi trọng giáo dục ý thức tuân thủ, chấp hành, tôn vinh Hiến pháp và pháp luật trong toàn xã hội; tôn trọng các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ quan của công dân; (ii) Các thiết chế và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị phải đặt trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; (iii) Mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật; có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; (iv) Hiến pháp và pháp luật phải được thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất.
Thứ năm, từ đặc trưng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đòi hỏi: (i) Phải bảo đảm sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trong quá trình triển khai PBGDPL; (ii) Phải gắn kết PBGDPL với giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống để hình thành nhân cách con người phát triển toàn diện; (iii) PBGDPL phải là bộ phận không thể tách rời của công tác tuyên giáo, dân vận của hệ thống chính trị để tạo sự thống nhất trong nhận thức và đồng thuận về chính trị; thiết lập, duy trì, củng cố niềm tin, tình cảm của người dân vào thể chế và chế độ; (iv) Tổ chức đảng và đảng viên phải gương mẫu, tự giác, nêu gương trong học tập, tìm hiểu pháp luật; tuân thủ và chấp hành pháp luật; vận động, giáo dục, thuyết phục các chủ thể tự giác tuân thủ, chấp hành pháp luật.
Thứ sáu, từ đặc trưng Nhà nước thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đòi hỏi quá trình đổi mới PBGDPL phải: (i) Phù hợp với xu thế thời đại và tiếp cận chuẩn mực của thế giới; (ii) Tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước để vận dụng sáng tạo trong điều kiện thực tiễn Việt Nam; (iii) Không chỉ chú trọng đến pháp luật quốc gia mà phải quan tâm đến pháp luật quốc tế và pháp luật của các nước có chung đường biên giới; (iv) Không chỉ cho công dân Việt Nam ở trong nước mà còn cho người Việt Nam ở nước ngoài và cho người nước ngoài cư trú tại Việt Nam.
3. Trước các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền như trên,nhìn một cách khái quát cho thấy công tác PBGDPL ở Việt Nam có những ưu điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, việc cung cấp thông tin về pháp luật cho công dân đã được coi trọng. Hoạt động công bố luật, pháp lệnh; ra thông cáo báo chí về văn bản và đăng tải công khai các văn bản pháp luật chuyên ngành trên Cổng/Trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước, các phương tiện thông tin, truyền thông đại chúng, mạng lưới thông tin cơ sở được thực hiện khá nghiêm túc, kịp thời. Cơ sở dữ liệu thông tin về pháp luật được Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng, ngày càng hoàn thiện gắn với ứng dụng công nghệ thông tin; đăng tải hầu hết các văn bản sau khi được ban hành, cả văn bản sửa đổi, bổ sung, hợp nhất; bảo đảm tính công khai, minh bạch và khá đầy đủ để mọi người dễ dàng tiếp cận, khai thác, sử dụng miễn phí (http://congbao.chinhphu.vn; http://quochoi.vn; http://phapdien.moj.gov.vn;http://tulieuvankien.dangcongsan.vn;http://vbpl.vn) và các cơ sở dữ liệu pháp luật khác do tổ chức ngoài Nhà nước xây dựng có thu phí từ người sử dụng (https://thuvienphapluat.vn; https://luatvietnam.vn...).
Thứ hai, các hoạt động giáo dục, đào tạo luật, nghề luật; giáo dục pháp luật trong nhà trường, giáo dục chuyên biệt cho đối tượng đặc biệt được quan tâm, chú trọng hơn, tăng về số lượng và bảo đảm về chất lượng[6]. Nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu, sách tham khảo được rà soát, chỉnh sửa, bổ sung và từng bước chuẩn hóa, đa dạng, phong phú và sát thực tiễn hơn. Đội ngũ nhà giáo dạy pháp luật được chuẩn hóa, thường xuyên được cập nhật, bổ sung kiến thức, kỹ năng mới. Hoạt động đánh giá, kiểm định chất lượng bước đầu được coi trọng đã góp phần quan trọng vào giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nhân cách con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn với giáo dục ý thức tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật và xây dựng văn hóa pháp lý trong xã hội. Đặc biệt, từ năm 2017 môn giáo dục công dân là một môn thi tốt nghiệp trung học phổ thông và là một môn học trong tổ hợp xét tuyển vào một số trường đại học, cao đẳng đã càng khẳng định vai trò, tính đúng hướng của hoạt động này.
Thứ ba, các chủ thể đã nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về trách nhiệm trong PBGDPL, nhất là các cơ quan quản lý, cán bộ, công chức và đại biểu dân cử. Tổ chức bộ máy cán bộ và đội ngũ người làm PBGDPL, nhất là báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật được củng cố, kiện toàn; chất lượng, hiệu quả hoạt động được nâng lên, thực sự là lực lượng nòng cốt trong PBGDPL tại cơ sở. Hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL các cấp và Tổ thư ký thiết thực, hiệu quả hơn, bám sát nhiệm vụ, quyền hạn được giao, nhất là trong chỉ đạo, hướng dẫn, xây dựng chương trình, kế hoạch; định hướng nội dung, hình thức, chủ đề, điều phối các hoạt động và chia sẻ các nguồn lực. Đã có sự gắn kết chặt chẽ hơn trong triển khai PBGDPL tại địa bàn cơ sở giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, mạng lưới các Tổ hòa giải ở cơ sở và các hoạt động thực tiễn pháp lý của các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực pháp luật, nhất là các tổ chức hành nghề luật sư.
Thứ tư, nội dung PBGDPL từng bước được đổi mới, bên cạnh quy định của pháp luật thực định đã bước đầu quan tâm giáo dục ý thức pháp luật, gương người tốt việc tốt trong tuân thủ, chấp hành pháp luật và một số điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên. Tài liệu PBGDPL đa dạng, phong phú và sát hơn với nhu cầu của từng nhóm đối tượng, nhất là các ấn phẩm, các câu chuyện pháp luật, tình huống pháp lý. Tài liệu công bố luật, pháp lệnh, các đề cương, thông cáo báo chí về văn bản được biên soạn kịp thời, chất lượng được nâng lên, chú trọng mục tiêu chính sách, điểm mới, sửa đổi, bổ sung.
Thứ năm, hình thức PBGDPL phong phú, đa dạng và sát thực hơn với từng lĩnh vực, địa bàn, nhóm đối tượng với nhiều mô hình mới, cách làm sáng tạo, hiệu quả như: Mô hình Ngày Pháp luật; các cuộc thi tìm hiểu pháp luật trong cả nước, từng bộ, ngành, đoàn thể, địa phương; tuyên truyền miệng, tổ chức hội nghị quán triệt, phổ biến văn bản mới… Hoạt động PBGDPL cho đối tượng đặc thù được quan tâm hơn, gắn với việc triển khai thực hiện các chương trình, đề án và các hoạt động giáo dục chuyên biệt. Các hoạt động PBGDPL, trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số, người khuyết tật, trẻ em, nạn nhân bạo lực gia đình, người lao động trong doanh nghiệp được quan tâm đẩy mạnh.
Thứ sáu, đã từng bước hình thành trong đảng viên, cán bộ thói quen chủ động nghiên cứu, học tập, tìm hiểu và nắm vững pháp luật, tuân thủ, chấp hành Hiến pháp và pháp luật trong thực thi công vụ; tuyên truyền, vận động, giáo dục người dân thực thi pháp luật. Việc học tập, cập nhật kiến thức pháp luật mới trở thành nhiệm vụ thường xuyên, hằng năm và là chế độ bắt buộc của mỗi đảng viên, cán bộ. Đặc biệt, người dân đã tích cực, chủ động hơn trong tự học tập, tìm hiểu pháp luật; bước đầu hình thành thói quen đối chiếu giữa hành vi với các quy định của pháp luật khi tham gia các quan hệ xã hội. Tình hình vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích chung, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể do thiếu hiểu biết pháp luật có xu hướng giảm. Người dân đã biết cách sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Ý thức tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật trong cán bộ và nhân dân được nâng lên, góp phần tích cực vào ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Thứ bảy, nguồn lực đầu tư cho công tác PBGDPL, nhất là kinh phí được quan tâm, chú trọng hơn. Chính sách xã hội hóa, huy động các nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL bước đầu được triển khai thực hiện, nhất là các hỗ trợ, tài trợ của doanh nghiệp, cá nhân qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, hưởng ứng Ngày Pháp luật hằng năm. Đã phát huy được vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong tham gia tuyên truyền, phổ biến, vận động thành viên, hội viên tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; thu hút, huy động được cơ quan thông tin, truyền thông đại chúng, báo chí, tổ chức hành nghề luật tham gia PBGDPL, nhất là các tổ chức hành nghề luật sư và các luật sư. Các thẩm phán, điều tra viên, kiểm sát viên, chấp hành viên, công chức nhà nước trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc thực thi công vụ đã cung cấp các thông tin về pháp luật, hướng dẫn, giải pháp các vướng mắc về pháp luật. Tòa án nhân dân đã tăng cường các hoạt động xét xử lưu động để qua đó tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân.
4. Bên cạnh những ưu điểm và thành tựu đã đạt được là chủ yếu, công tác PBGDPL cũng đã bộc bộ một số tồn tại, hạn chế sau:
Một là, nội hàm khái niệm PBGDPL chưa được nhận thức đầy đủ, cả về lý luận và pháp lý nên còn nhiều cách hiểu chưa thống nhất. Do chưa rõ sự tương đồng và khác biệt giữa thông tin pháp luật với giáo dục pháp luật, truyền thông chính sách, tuyên truyền chính trị nên các vấn đề này vẫn nằm chung trong cơ chế điều chỉnh của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và chưa có sự phân định sự khác biệt về nội dung, mức độ và phạm vi điều chỉnh; thậm chí còn có sự trùng lắp trong điều chỉnh pháp luật giữa Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (về công bố luật, pháp lệnh, công báo, truyền thông chính sách); Luật Tiếp cận thông tin (về quyền được thông tin của công dân và các biện pháp bảo đảm thực hiện); Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp.
Hai là, hiện có nhiều cơ sở dữ liệu văn bản, nguồn tài liệu PBGDPL được triển khai xây dựng nhưng còn thiếu sự gắn kết, liên thông, chia sẻ thông tin nên dẫn đến trùng lắp về hoạt động, gây lãng phí về thời gian, công sức, nguồn lực. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong PBGDPL chưa tương xứng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng 4.0. Một số văn bản được cập nhật chậm hoặc không được cập nhật hoặc không rõ hiệu lực. Việc truy cập, khai thác, sử dụng hệ cơ sở dữ liệu văn bản chưa tiện dụng, nhất là trong tra cứu, tìm kiếm các QPPL đang có hiệu lực tại một thời điểm, cho sự kiện, tình huống cụ thể và xử lý xung đột pháp luật khi có sự mâu thuẫn, chồng chéo. Hệ cơ sở dữ liệu văn bản do các đơn vị ngoài Nhà nước xây dựng tuy khá đầy đủ, tiện dụng trong tra cứu hiệu lực và liên kết giữa các văn bản nhưng có thu phí, thông tin pháp luật lại không chính thức nên không phải ai cũng dễ dàng tiếp cận, nhất là người dân ở vùng sâu, vùng xa hoặc không có khả năng sử dụng công nghệ thông tin hoặc có bất đồng về ngôn ngữ, không hiểu biết tiếng phổ thông. Trong khi đó, tủ sách pháp luật, mạng lưới thông tin cơ sở thiếu thốn, lạc hậu; có tài liệu PBGDPL trích dẫn không rõ nguồn nên không rõ hiệu lực áp dụng; mạng lưới truyền thanh cơ sở thiếu nguồn tài liệu để cung cấp thông tin pháp luật đến người dân.
Ba là, hoạt động giáo dục pháp luật trong nhà trường chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, gắn với xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, cả về nhân cách, đạo đức, tâm hồn, trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật. Nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu, sách tham khảo còn nặng về lý thuyết, khô cứng khi dựa trên quy định của pháp luật, chưa gắn kết lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành và chậm được rà soát, cập nhật, bổ sung nội dung kiến thức, quy định mới; chưa quan tâm đúng mức đến giáo dục gương người tốt, việc tốt, ý thức và thói quen tự giác học tập, tìm hiểu, tuân thủ và chấp hành pháp luật, bồi dưỡng kỹ năng xử sự phù hợp với pháp luật. Đội ngũ giáo viên dạy môn đạo đức, giáo dục công dân, pháp luật đại cương ở nhiều nơi chưa được đào tào chuẩn kiến thức pháp luật trong khi việc cập nhật kiến thức, quy định mới và kỹ năng chưa được liên tục. Việc đánh giá, kiểm định chất lượng chưa dựa trên tiêu chí cụ thể có thể lượng hóa ở mức độ tối đa. Phương pháp dạy và học pháp luật chậm được đổi mới, thiếu linh hoạt, sáng tạo và chưa gắn với các tình huống, vụ việc, sự kiện cụ thể, gắn với thực tiễn cuộc sống của người dân nên chưa thu hẹp được khoảng cách giữa quy định của pháp luật với thực tiễn đời sống, chưa sát với đặc thù, tính chất và nhu cầu và chưa phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học.
Bốn là, cách thức triển khai các hoạt động PBGDPL chuyên biệt, qua hoạt động thực tiễn pháp lý của các chủ thể vẫn nặng tính truyền thống, chủ yếu xuất phát từ mong muốn của cơ quan nhà nước áp đặt lên xã hội để phục vụ nhu cầu quản lý mà chưa xuất phát từ mong muốn của người dân, gắn với quyền, nghĩa vụ của chủ thể trong tình huống, sự kiện cụ thể. Tài liệu, đề cương PBGDPL biên soạn chậm, chất lượng chưa sâu; hình thức chưa đa dạng và phong phú; chủ yếu tập trung giới thiệu sự cần thiết phải ban hành, quan điểm xây dựng, mục tiêu chính sách và một số nội dung mới, sửa đổi, bổ sung mang tính định hướng, dành cho báo cáo viên, tuyên truyền viên, cán bộ, công chức thi hành văn bản mà chưa gắn với các hành vi bị nghiêm cấm, chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể, thậm chí còn thiếu sự phân hóa về nội dung và phương pháp dựa trên đặc điểm, tính chất của từng đối tượng, địa bàn, lĩnh vực; chưa gắn kết và đặt trong sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật nên rất khó cho người dân trong áp dụng, nhất là khi người dân chưa có đủ kỹ năng nghiên cứu, cập nhật các quy định pháp luật và vận dụng, sử dụng pháp luật.
Năm là, các hoạt động PBGDPL được triển khai theo phong trào và nặng tính hình thức vẫn còn ở một số nơi hoặc mới chỉ tập trung vào một số số chiến dịch, thời điểm nhất định; chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều. Đến nay vẫn chưa đạt được mục tiêu tạo chuyển biến căn bản, toàn diện và bền vững về ý thức tôn trọng pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân, nhất là trong ý thức tự giác, chủ động và tích cực học tập, tìm hiểu pháp luật trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Vẫn còn khoảng cách lớn giữa mục tiêu chính sách đề ra trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật với khả năng hiện thực hóa trong thực tiễn. Tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm, khiếu nại, tố cáo diễn biến phức tạp, cả về phạm vi, tính chất, mức độ, nổi lên là bạo lực gia đình, bạo lực học đường, ô nhiễm mỗi trường, tham nhũng, lãng phí. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật, thiếu tu dưỡng rèn luyện, chưa nêu gương, thậm chí còn vi phạm pháp luật, ngay cả trong cán bộ chủ chốt, các cơ quan bảo vệ pháp luật và đội ngũ thi hành pháp luật, giáo viên, cán bộ quản lý.
Sáu là, nguồn lực đầu tư, bảo đảm cho công tác PBGDPL phân bố chưa đồng đều giữa các địa phương và chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ, nhất là kinh phí bảo đảm triển khai thực hiện các chương trình, đề án về PBGDPL và PBGDPL cho nhóm các đối tượng đặc thù, tại các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách. Nhiều thông tin, tài liệu PBGDPL không chính thức, thiếu kiểm duyệt về nội dung, hình thức thể hiện, nhất là thông tin trên internet, mạng xã hội gây khó khăn cho người dân trong tiếp cận, tìm hiểu và sử dụng.
5. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tồn tại, hạn chế nhưng chủ yếu là do:
Về khách quan, xuất phát điểm của nước ta thấp. Hoạt động PBGDPL khó thu hút, huy động các nguồn lực tham gia theo chủ trương xã hội hóa. Hệ thống pháp luật phức tạp, thiếu ổn định. Một số chính sách, quy định mới chưa nhận được sự đồng thuận cao từ xã hội; nhu cầu, kỳ vọng và đòi hỏi đối với công tác PBGDPL rất lớn, để làm tốt phải kiên trì, thường xuyên, liên tục; vừa làm, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm. Một bộ phận người dân và cán bộ nhận thức pháp luật hạn chế, chưa có thói quen chủ động tự giác học tập, tìm hiểu, chấp hành pháp luật; việc xử lý vi phạm chưa nghiêm. Một số chủ trương, chính sách chậm được thể chế hóa, cụ thể hóa hoặc triển khai chưa thường xuyên; một số quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật đã bộc lộ hạn chế; thiếu khả thi hoặc mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản khác. Chương trình, đề án về PBGDPL được ban hành nhiều, mục tiêu lớn nhưng chưa có tính hệ thống, thiếu sự điều phối hoạt động, còn trùng lắp về hoạt động, đối tượng, địa bàn; quá trình thực hiện rất chậm, thiếu nguồn lực bảo đảm và cơ chế đánh giá chất lượng, hiệu quả; chưa có tính ổn định, bền vững cũng như sự kế thừa, phát triển các kết quả đạt được sau khi chương trình, đề án kết thúc. Việc hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, xây dựng và nhân rộng các mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả chưa được quan tâm nên thiếu điều chỉnh linh hoạt; nghiên cứu, tham khảo và học tập kinh nghiệm nước ngoài chưa được chú trọng đúng mức.
Về chủ quan: Tư duy, nhận thức về PBGDPL chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của xã hội và nhu cầu tiếp cận thông tin, tìm hiểu pháp luật của công dân. Vẫn còn bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, cơ quan, đơn vị chưa quan tâm đúng mức đến PBGDPL, nhất là trong quản lý nhà nước chuyên ngành nên thiếu hướng dẫn, chỉ đạo; chất lượng nguồn nhân lực chưa đồng đều, chủ yếu kiêm nhiệm; mối quan hệ phối hợp trong PBGDPL chưa hiệu quả; tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa theo kịp yêu cầu sự phát triển của thực tiễn.
6. Để tiếp tục đổi mới công tác PBGDPL đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền hướng đến mục tiêu công khai, minh bạch hệ thống pháp luật, thực hiện đầy đủ quyền được thông tin về pháp luật; tạo chuyển biến căn bản và toàn diện trong nhận thức pháp luật, xây dựng ý thức, lối sống tôn trọng, nghiêm chỉnh tuân thủ, chấp hành Hiến pháp và pháp luật trong toàn xã hội nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực, xây dựng, bồi đắp ý thức pháp quyền của mỗi người dân và toàn xã hội, cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đổi mới tư duy, cách tiếp cận về PBGDPL so với cách tiếp cận truyền thống để xác định đúng bản chất của PBGDPL
- Làm rõ nội hàm và các thành tố cấu thành PBGDPL; xác định rõ bản chất, đặc trưng của nhóm các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về PBGDPL. Theo đó, PBGDPL bao gồm các thành tố: (i) Thông tin về pháp luật; (ii) Truyền thông chính sách; (iii) Giáo dục pháp luật; (iv) Các hoạt động PBGDPL chuyên biệt; (v) Hoạt động tự học tập, tìm hiểu pháp luật của các chủ thể. Tương ứng với các thành tố đó, cần bóc tách, làm rõ sự tương đồng, khác biệt để xây dựng quy chế pháp lý điều chỉnh phù hợp. Bên cạnh các hoạt động PBGDPL thể hiện sự tác động từ phía Nhà nước và xã hội lên các chủ thể mang tính áp đặt, các chủ thể tiếp cận thụ động thì cần phải đề cao trách nhiệm tự nghiên cứu, học tập, tìm hiểu pháp luật của các chủ thể để phát huy tính năng động, sáng tạo và tích cực, chủ động từ phía các chủ thể.
- Chuyển đổi mô hình từ chủ yếu tập trung tuyên truyền, phổ biến quy định pháp luật mang tính áp đặt từ phía Nhà nước và xã hội đến chủ thể sang mô hình chú trọng giáo dục ý thức pháp luật, có sự kết hợp giữa yêu cầu mang tính áp đặt từ Nhà nước xuống xã hội theo nội dung của văn bản, quy định, với nhu cầu tìm hiểu pháp luật của người dân gắn với tình huống, vụ việc, sự kiện pháp lý cụ thể liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân (kết hợp giữa tư duy pháp lý của quản lý với tư duy pháp lý kiểu luật sư); kết hợp giữa giáo dục kiến thức, quy định của pháp luật với giáo dục kỹ năng, thái độ và hành vi ứng xử dựa trên pháp luật; tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật tiến tới Nhà nước và đội ngũ công chức chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm.
- Cần nhấn mạnh nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong tự học tập, tìm hiểu và phải nắm vững pháp luật trong thi hành pháp luật; thực hiện đúng pháp luật như là trách nhiệm pháp lý bắt buộc để “một người chỉ được nhân danh pháp luật để thực thi pháp luật khi có tri thức hiểu biết đầy đủ về pháp luật”. Việc học tập, tìm hiểu và cập nhật các quy định mới ban hành phải trở thành chế độ bắt buộc. Cán bộ, công chức làm việc trong lĩnh vực nào phải nắm vững các chuẩn mực, quy tắc và am hiểu sâu sắc pháp luật trong lĩnh vực đó; phải gương mẫu tự giác tuân thủ, chấp hành luật; thực thi công vụ trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; phải đồng thời là báo cáo viên pháp luật để tuyên truyền, vận động, giải thích, thuyết phục người dân tuân thủ, chấp hành pháp luật; coi đây là tiêu chí đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ công tác.
- Định rõ vị trí, vai trò của PBGDPL trong Nhà nước pháp quyền và trong giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, tuyên giáo, vận động quần chúng; trong xây dựng, thi hành và bảo vệ pháp luật. PBGDPL không chỉ là bộ phận của giáo dục tư tưởng, chính trị, tuyên giáo, dân vận của cả hệ thống chính trị để tạo sự thống nhất về nhận thức và đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin của Nhân dân với chủ trương, chính sách, pháp luật mà còn là khâu đầu tiên của thi hành chính sách, pháp luật nhằm đưa chính sách pháp luật vào cuộc sống; là chất liệu đầu vào của xây dựng chính sách pháp luật, góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật. Qua thi hành và bảo vệ pháp luật phải hướng đến mục tiêu giúp Nhân dân nhận thức rõ về tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, thấy rõ vị trí, vai trò và tính nghiêm minh của chính sách pháp luật; thấy được những lợi ích của việc tuân thủ và chấp hành pháp luật để xây dựng một xã hội thượng tôn pháp luật, suy tôn pháp quyền, để các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước thực sự thẩm thấu trong hành vi, ý thức của mỗi người.
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu, nhận diện, làm rõ phạm vi trách nhiệm của Nhà nước trong phổ biến, giáo dục pháp luật và huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia vào công tác này
Với thuộc tính của mình, Nhà nước phải tập trung nguồn lực để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ rất quan trọng như quản lý, duy trì xã hội phát triển trong trật tự để không đi đến đổ vỡ; kiến tạo sự phát triển xã hội để bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững; thực hiện tốt các chức năng xã hội để phục vụ cộng đồng, xã hội, nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương để bảo đảm công bằng xã hội. Nhà nước phải thực hiện tốt chức năng tổ chức và quản lý các quá trình xã hội để chúng duy trì và phát triển ổn định trong vòng trật tự; khuyến khích, huy động, khai thông được mọi tiềm năng, nguồn lực từ xã hội để tham gia để giải quyết những công việc chung của toàn xã hội. Nhà nước buộc phải lựa chọn thứ tự ưu tiên cho những công việc cấp bách mà xã hội thực sự cần nhưng chưa có hoặc không có chủ thể nào đảm trách, trọng tâm là hoạch định và thực thi chính sách pháp luật quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quốc phòng, đối ngoại… Do vậy, Nhà nước cần tập trung vào: (i) Cung cấp thông tin về pháp luật (nhất là thông tin điểm mới về chính sách pháp luật, sự thay đổi, điều chỉnh, bổ sung về chính sách pháp luật); (ii) Thực hiện truyền thông chính sách trong tất cả các khâu của chu trình chính sách công (nhất là lấy ý kiến về chính sách; đối thoại chính sách khi người dân chưa rõ hoặc cần yêu cầu giải thích chính thức; cung cấp thông tin chính thức khi có khủng hoảng truyền thông và định hướng dư luận xã hội…); (iii) Trợ giúp pháp lý cho nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội (gắn với các tình huống, vụ việc, sự kiện cụ thể liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân…); (iv) Giáo dục pháp luật trong trường học thông qua chương trình, giáo trình, tài liệu chuẩn hóa (trọng tâm là giáo dục kiến thức, kỹ năng, thái độ, xây dựng ý thức, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật và văn hóa pháp lý…); (v) PBGDPL thông qua cán bộ, công chức trong thực thi công vụ và đội ngũ báo cáo viên pháp luật; (vi) Định ra nguyên tắc, chế độ, chính sách, tiêu chuẩn chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL; khuyến khích, huy động và từng bước đa dạng hóa các chủ thể tham gia PBGDPL theo chủ trương xã hội hóa nhằm thúc đẩy sự hình thành, phát triển thị trường PBGDPL trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng về chất lượng dịch vụ, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt; tiến tới mỗi người dân đều có nghĩa vụ và trách nhiệm phải học tập, tìm hiểu, nắm vững pháp luật và tích cực tham gia PBGDPL.
Thứ ba, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong phổ biến, giáo dục pháp luật để tận dụng những lợi thế từ cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0
- Số hóa đầy đủ các văn bản pháp luật, văn bản hợp nhất; tài liệu nghiệp vụ PBGDPL, nhất là tài liệu tập huấn chuyên sâu về các văn bản mới, các ấn phẩm khác, các tài liệu họp báo, ra thông cáo báo chí về văn bản; hồ sơ tài liệu trình ban hành văn bản. Cập nhật đầy đủ, có hệ thống các thông tin nêu trên trong Cổng thông tin PBGDPL quốc gia với tư cách là thiết chế cung cấp thông tin pháp luật chính thức với các trường thông tin đa dạng, phù hợp với nhu cầu tìm hiểu của Nhân dân nói chung và từng nhóm đối tượng đặc thù nói riêng.
- Xây dựng và số hóa các Bộ pháp điển, không chỉ bao gồm các quy phạm pháp luật đang có hiệu lực mà còn chứa đựng các quy phạm pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc chấm dứt hiệu lực để tích hợp, kết nối, liên thông với Cổng thông tin PBGDPL quốc gia. Xây dựng các bộ tập hợp hóa văn bản pháp luật gắn với nghiên cứu, bình luận chuyên sâu của các chuyên gia để làm rõ nội dung, tinh thần của văn bản có so sánh, đối chiếu với các chuẩn mực quốc tế và dựa trên cơ sở lý luận của các học thuyết pháp lý.
- Xây dựng và số hóa các tài liệu PBGDPL dùng chung trong phạm vi cả nước; các tài liệu PBGDPL chuyên biệt cho từng nhóm đối tượng, địa bàn, lĩnh vực cụ thể; tài liệu PBGDPL chuyên sâu cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật và cán bộ làm công tác quản lý nhà nước. Kết nối, liên thông, chia sẻ nguồn thông tin, tư liệu PBGDPL từ Cổng thông tin PBGDPL quốc gia đến các cơ sở dữ liệu khác để người dân dễ dàng tiếp cận, khai thác, sử dụng.
- Xây dựng Cổng thông tin điện tử PBGDPL quốc gia kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu với Cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia; tủ sách pháp luật điện tử quốc gia; Công báo điện tử và các cơ sở dữ liệu pháp luật khác; với Trang thông tin PBGDPL trên Cổng thông tin điện tử của bộ, ngành, đoàn thể, địa phương. Đây sẽ là kênh cung cấp thông tin pháp luật chính thức của Nhà nước; là nguồn tích hợp, trích xuất các thông tin về pháp luật cho cơ sở dữ liệu khác. Bên cạnh các dữ liệu văn bản, cần nghiên cứu, bổ sung các bản án, quyết định của Tòa án chứa đựng các án lệ, các bình luận chuyên sâu của các chuyên gia…
- Tổ chức các cuộc thi trực tuyến tìm hiểu kiến thức pháp luật; thi đố vui giải đáp tình huống pháp lý; thi tìm kiếm giải pháp đổi mới công tác PBGDPL, thi sáng tác các tiểu phẩm PBGDPL để có được tài liệu PBGDPL có chất lượng tốt nhất làm cơ sở để xây dựng các tiểu phẩm tuyên truyền. Xây dựng các bài giảng điện tử, phát triển các phòng học trực tuyến để người dân, cán bộ có nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu, học tập có thể truy cập ở mọi lúc, mọi nơi. Thiết lập cơ chế để gia tăng sự tương tác giữa các chủ thể trong quá trình tiếp cận, khai thác và sử dụng để kịp thời giải tỏa vướng mắc. Nghiên cứu, sử dụng mạng xã hội để tăng cường truyền thông, PBGDPL để tạo sức lan tỏa xã hội; thu thập thông tin, nắm bắt nhu cầu và phản ứng của dư luận xã hội để có định hướng tương tác, điều chỉnh cho phù hợp nhằm định hướng dư luận.
- Thiết lập kênh đối thoại chính thức, trực tuyến giữa các cơ quan nhà nước với công dân, doanh nghiệp để thu thập, phân loại, xử lý và giải đáp kịp thời các thắc mắc của người dân, doanh nghiệp trong thi hành pháp luật.
Thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Đây là giải pháp rất quan trọng trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Thực tiễn cho thấy sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cần sớm tổng kết, đánh giá việc thực hiện chủ trương, chính sách về PBGDPL, trọng tâm là tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003; Thông báo Kết luận số 74-TB/TW ngày 11/5/2007, Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban Bí thư. Trên cơ sở phân tích dự báo yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước, nhất là trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền để đề ra mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục phát triển công tác PBGDPL trong thời gian tới. Đề xuất Bộ Chính trị/Ban Bí thư ban hành nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PBGDPL nâng cao ý thức tuân thủ và chấp hành pháp luật trong cán bộ, đảng viên và nhân dân hoặc xây dựng, ban hành Chiến lược tổ chức thi hành pháp luật/Chiến lược về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong đó có nội dung đổi mới công tác PBGDPL; gắn với đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, với giáo dục và đào tạo; tuyên truyền, vận động, giác ngộ quần chúng của Đảng và cả hệ thống chính trị; với công tác xây dựng, thi hành và bảo vệ pháp luật. Trọng tâm là tiếp tục giao nhiệm vụ cho cấp ủy, tổ chức đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức quán triệt, phổ biến nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của PBGDPL; tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách; củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức PBGDPL; nâng cao hiệu quả công tác phối hợp và tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện.
Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về phổ biến, giáo dục pháp luật, trọng tâm là tổng kết việc thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Về cách thức tiếp cận PBGDPL cần dựa trên tư duy tiếp cận dựa trên quyền và bảo đảm thực hiện quyền, trọng tâm là quyền được thông tin về pháp luật; được giáo dục ý thức pháp luật để hình thành nhân cách con người phát triển toàn diện. Quyền được thông tin về pháp luật phải là quyền con người chứ không phải chỉ là quyền công dân như hiện nay bởi lẽ công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đều có nghĩa vụ phải tuân thủ, chấp hành Hiến pháp, pháp luật Việt Nam. Về nội dung, quyền được thông tin về pháp luật bao gồm: (i) Quyền tự do tìm kiếm thông tin pháp luật; (ii) Quyền được biết thông tin về những nội dung sửa đổi, bổ sung, quy định mới; các hành vi bị nghiêm cấm và chế tải xử lý đối với hành vi vi phạm; (iii) Quyền được nêu ý kiến, bày tỏ quan điểm, thái độ trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Việc sửa đổi, bổ sung Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật cần theo hướng sau:
- Nhận diện đầy đủ về khái niệm, đặc điểm của PBGDPL; phân định rõ sự tương đồng và khác biệt giữa thông tin về pháp luật với giáo dục pháp luật, với truyền thông chính sách, tuyên truyền, giáo dục ý thức chính trị, các hoạt động PBGDPL chuyên biệt thông qua các hoạt động thực tế pháp lý của các chủ thể.
- Về đối tượng điều chỉnh: Đó là các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động PBGDPL, gắn với ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền được thông tin về pháp luật của con người; bảo đảm sự tôn trọng, tuân thủ và chấp hành Hiến pháp và pháp luật của các chủ thể đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật; các thiết chế trong hệ thống chính trị và toàn xã hội vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật để bảo đảm cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất và phát huy đầy đủ vai trò điều chỉnh trong đời sống xã hội; định rõ phạm vi trách nhiệm của Nhà nước trong PBGDPL.
- Về mức độ, phạm vi và phương pháp: Hoạt động PBGDPL phải được điều chỉnh ở tầm cao nhất dưới hình thức văn bản luật; bảo đảm sự kết hợp giữa phương pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành (đối với các hành vi bị nghiêm cấm, các nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của các chủ thể), với phương pháp giáo dục, thuyết phục, động viên, khuyến khích (trong phát huy ý thức tự giác, tích cực, chủ động của các chủ thể trong học tập, tìm hiểu pháp luật, trong tuân thủ, chấp hành Hiến pháp và pháp luật và tham gia PBGDPL cho cán bộ và nhân dân).
- Về nội dung điều chỉnh: Tập trung vào các vấn đề như: (i) Chính sách về PBGDPL; (ii) Các nguyên tắc PBGDPL; (iii) Các hành vi bị nghiêm cấm và chế tài xử lý; (iv) Địa vị pháp lý của các chủ thể (từ người được PBGDPL đến người thực hiện PBGDPL); (v) Nội dung, hình thức PBGDPL; (vi) Hoạt động PBGDPL và các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL; (vii) Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong PBGDPL; (viii) Các điều kiện và nguồn lực bảo đảm thực hiện công tác PBGDPL; (ix) Quản lý nhà nước về PBGDPL.
- Về nguồn lực và điều kiện bảo đảm: Làm rõ cơ sở của việc bố trí, phân bổ các nguồn lực; điều kiện bảo đảm thực hiện PBGDPL và tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Hoàn thiện các quy định về nguồn lực bảo đảm cho công tác PBGDPL; có chính sách hỗ trợ đối với các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách và chính sách xã hội hóa, huy động các nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL. Cần dự liệu đầy đủ nguồn nhân lực và kinh phí, cơ sở vật chất bảo đảm triển khai công tác PBGDPL trong tình hình mới, nhất là tại các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn chưa tự cân đối được ngân sách cũng như trong bảo đảm triển khai chủ trương, chính sách về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động PBGDPL.
- Về hiệu quả điều chỉnh: Đó là sự chuyển biến tích cực trong nhận thức, trong hành vi, trong thái độ, trong tình cảm và trong ứng xử của các chủ thể đối với pháp luật trước và sau khi điều chỉnh bằng pháp luật so với chi phí và nguồn lực đầu tư cũng như những tác động mang tính xã hội lên tính bền vững của tình hình ổn định xã hội. Hiệu quả điều chỉnh được đánh giá dựa trên một số tiêu chí: (i) Mức độ thẩm thấu của ý thức pháp quyền trong đời sống xã hội; (ii) Mức độ và tình hình vi phạm pháp luật trong xã hội từ phía các chủ thể do thiếu hiểu biết pháp luật; (iii) Mức độ và tình hình các chủ thể tự giác, chủ động học tập, tìm hiểu pháp luật; (iv) Mức độ và tình hình các chủ thể tích cực, tự giác và chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý; (v) Mức độ và tình hình các chủ thể pháp luật tham gia quản lý nhà nước và quản lý xã hội; (vi) Mức độ hoàn thiện và tính ổn định của hệ thống pháp luật; (vii) Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước và của địa phương…
Thứ sáu, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác PBGDPL, nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước, các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, bảo đảm cả về số lượng và chất lượng, đủ năng lực đáp ứng nhu cầu PBGDPL của Nhân dân. Tiếp tục đổi mới công tác bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ, chú trọng các kỹ năng mới và giải đáp vướng mắc nảy sinh từ thực tiễn triển khai công tác PBGDPL. Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp, chú trọng lồng ghép trong PBGDPL, nhất là trong triển khai các chương trình phối hợp công tác; có giải pháp đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng phối hợp PBGDPL các cấp và các Ban Thư ký. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về PBGDPL gắn với xây dựng, nhân rộng các mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả; nghiên cứu, xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các Bộ Tiêu chí đánh giá hiệu quả: (i) Công tác PBGDPL; (ii) Thực hiện các đề án, chương trình về PBGDPL; (iii) Đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ bảy, tiếp tục đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức PBGDPL phù hợp với từng nhóm đối tượng, địa bàn, lĩnh vực. Đổi mới thông tin về pháp luật đáp ứng yêu cầu triển khai thực hiện Luật Tiếp cận thông tin trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học 4.0 và truyền thông chính sách trong chu trình chính sách công. Đổi mới công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trọng tâm là nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy và học pháp luật trong nhà trường; chuẩn hóa nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu dạy và học pháp luật trong nhà trường; đổi mới nội dung, hình thức giáo dục, nhất là qua các hoạt động giáo dục ngoại khóa ngoài giờ lên lớp, chú trọng giáo dục kỹ năng, thái độ ứng xử phù hợp với chuẩn mực pháp luật, phát huy vai trò chủ động tham gia của người học. Gắn kết chặt chẽ hơn hoạt động PBGDPL với hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở qua các vụ việc, tình huống, sự kiện cụ thể. Chú trọng PBGDPL qua hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và trong triển khai công tác tuyên giáo, dân vận của Đảng và tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân của các tổ chức đoàn thể xã hội. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL trên các phương tiện truyền thông đại chúng, các cơ quan báo chí nhất là truyền thông số, đa phương tiện để gia tăng sự tương tác giữa các chủ thể, cung cấp thông tin chính xác, nhanh nhạy, kịp thời và đa chiều.
Thứ tám, bảo đảm đủ nguồn lực cho công tác PBGDPL, nhất là kinh phí, cơ sở vật chất và trang thiết bị, phương tiện làm việc. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về nguồn lực bảo đảm cho công tác PBGDPL; chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ người làm công tác PBGDPL; chính sách xã hội hóa, huy động các nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL. Nghiên cứu, bổ sung tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí trong công tác PBGDPL./.
TS. Đỗ Xuân Lân
Bộ Tư pháp
Bộ Tư pháp
[1] Nghiên cứu này là kết quả thuộc phạm vi Đề án khoa học cấp Bộ “Các giải pháp đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay” do TS. Đỗ Xuân Lân làm Chủ nhiệm.
[2] Hồ Chí Minh, Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản pháp lý, Hà Nội, 1985, tr. 132.
[3] Hồ Chí Minh, Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản pháp lý, Hà Nội, 1985, tr. 316.
[4] http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=1780&print=true.
[5] Hồ Chí Minh, Về công tác tư tưởng, Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội, 1985, tr. 167.
[6] Thi trực tuyến tìm hiểu kiến thức pháp luật trong nhà trường do Bộ Tư pháp; Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban nhân dân các địa phương tổ chức năm 2017, 2018 và 2019; các cuộc thi rung chuông vàng; thi tìm hiểu về dịch vụ công trực tuyến; sinh hoạt dưới cờ đầu tuần; tiết học pháp luật, triển lãm hình ảnh tai nạn giao thông; dự án Ngôi nhà xanh trong nhà trường để thu hút luật sư, luật gia tham gia tư vấn, giải đáp pháp luật.