Từ khóa: hàng giả; phòng, chống hàng giả; hành vi vi phạm.
Abstract: In recent times, the Party and the State have had many drastic policies and solutions to prevent and combat counterfeit goods; however, the production and trade of counterfeit goods is still complicated, with an increasing trend in both quantity and form. This article studies, analyzes and evaluates the current situation of counterfeit goods violations and the difficulties and obstacles in the work of preventing and combating counterfeit goods in Vietnam today, thereby proposing a number of solutions to contribute to improving the effectiveness of this work in the coming time.
Keywords: Counterfeit goods; prevention and combat of counterfeit goods; violations.
Đặt vấn đề
Quá trình hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu đã tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời, thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh và thương mại hàng hóa. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tình trạng sản xuất và kinh doanh hàng giả đang diễn biến ngày càng phức tạp với những phương thức, thủ đoạn tinh vi khó phát hiện, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Mặc dù, Việt Nam đã triển khai quyết liệt nhiều biện pháp đấu tranh phòng, chống và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, đạt được những kết quả tích cực, song tình hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này vẫn diễn biến phức tạp và chưa có dấu hiệu thuyên giảm. Đặc biệt, hoạt động buôn bán hàng giả trên các nền tảng số, sàn thương mại điện tử và mạng xã hội ngày càng tinh vi, gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý của các cơ quan chức năng. Do đó, việc xây dựng, triển khai hệ thống giải pháp tổng thể, đồng bộ, có tính chiến lược và khả thi để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống hàng giả trong bối cảnh hiện nay là yêu cầu cấp thiết.
1. Tình hình vi phạm hàng giả ở Việt Nam hiện nay
Theo cách hiểu thông thường, hàng giả là các sản phẩm được sản xuất hoặc kinh doanh bất hợp pháp, không có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, không bảo đảm chất lượng hoặc có công dụng, giá trị sử dụng không đúng so với hàng thật. Trong ngôn ngữ thường ngày, chúng còn được gọi là “hàng nhái”, “hàng đểu”, “hàng fake” hay “hàng kém chất lượng”.
Về mặt ngôn ngữ khoa học pháp lý, thuật ngữ “hàng giả” được định nghĩa, quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm phục vụ cho công tác quản lý nhà nước, như: Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023; Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2025 (Bộ luật Hình sự năm 2015); Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi, bổ sung các năm 2009, 2019, 2022 (Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005); Luật Dược năm 2016; Nghị định số 119/2017/NĐ-CP ngày 01/11/2017 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 126/2021/NĐ- CP ngày 30/12/2021 của Chính phủ (Nghị định số 119/2017/NĐ-CP); Nghị định số 98/2020/NĐ- CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 17/2022/NĐ-CP ngày 31/01/2022 của Chính phủ và Nghị định số 24/2025/NĐ-CP ngày 21/02/2025 của Chính phủ (Nghị định số 98/2020/NĐ-CP). Từ định nghĩa, quy định về hàng giả trong các văn bản quy phạm pháp luật, có thể thấy, hàng giả có ba loại, gồm: (i) hàng giả về nhãn hàng hóa, bao bì, nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm hàng hóa (giả mạo hình thức); (ii) hàng giả về giá trị sử dụng, công dụng của sản phẩm hàng hóa (giả mạo nội dung); (iii) hàng giả về nhãn hàng hóa, bao bì, nguồn gốc xuất xứ và giá trị sử dụng, công dụng (giả mạo về hình thức và nội dung).
Hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả thường diễn ra với thủ đoạn tinh vi, lợi dụng danh tiếng của các thương hiệu uy tín. Các đối tượng vi phạm thường sử dụng các nền tảng số, mạng xã hội để livestream và quảng cáo sản phẩm, sau đó, vận chuyển hàng thông qua các dịch vụ giao nhận hàng hóa (Freight Forwarder) để thu lợi bất chính và tránh sự kiểm soát của cơ quan chức năng. Những hành vi này đi ngược lại với các chuẩn mực đạo đức kinh doanh và vi phạm quy định của pháp luật, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với người tiêu dùng, doanh nghiệp và Nhà nước.
Theo Ban Chỉ đạo quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả (Ban Chỉ đạo 389 quốc gia), tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc, xuất xứ… hoạt động công khai ở nhiều nơi, gia tăng trên môi trường thương mại điện tử với quy mô lớn, trong thời gian dài, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân. Trong 06 tháng đầu năm 2025, các lực lượng chức năng đã bắt giữ và xử lý hơn 50.736 vụ việc vi phạm, trong đó, 10.862 vụ buôn bán, vận chuyển hàng cấm, hàng lậu; 36.604 vụ gian lận thương mại, gian lận về thuế; 3.270 vụ hàng giả, vi phạm sở hữu trí tuệ; thu nộp ngân sách nhà nước hơn 6.532,6 tỷ đồng; khởi tố hình sự 1.875 vụ, 3.235 đối tượng[1]. Đặc biệt, chỉ tính riêng trong tháng cao điểm phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả do Thủ tướng Chính phủ phát động từ ngày 15/5/2025 đến ngày 15/6/2025, các cơ quan chức năng đã bắt giữ, xử lý 10.437 vụ việc buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, tăng 80,51% so với tháng trước đó với 1.936 vụ buôn bán, vận chuyển hàng cấm, hàng lậu; 6.870 vụ gian lận thương mại, gian lận thuế; 1.631 vụ hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; thu nộp ngân sách nhà nước 1.279 tỷ đồng; khởi tố 204 vụ/378 bị can. Qua thống kê, có hơn 5.500 cửa hàng trên cả nước đóng cửa, tạm dừng hoạt động trong đợt cao điểm chống hàng giả[2]. Cũng trong tháng cao điểm, lực lượng quản lý thị trường cả nước đã kiểm tra 3.891 vụ việc, phát hiện và xử lý 3.114 vụ vi phạm với tổng số tiền xử lý hơn 63 tỷ đồng, trong đó, số tiền xử phạt hành chính vượt 32 tỷ đồng, hàng hóa bị tịch thu trị giá gần 31 tỷ đồng và đã thu nộp ngân sách gần 36 tỷ đồng; có tới 26 vụ việc có dấu hiệu hình sự đã được chuyển cho cơ quan điều tra, tăng 50% so với cùng kỳ năm trước[3]. Những con số này cho thấy, mặc dù, công tác đấu tranh phòng, chống hàng giả đã đạt được nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên, tình trạng hàng giả ở Việt Nam vẫn đang diễn ra trên quy mô lớn, với nhiều hình thức tinh vi, xuất hiện trong nhiều lĩnh vực, từ hàng tiêu dùng, thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, linh kiện điện tử đến hàng hóa mang yếu tố kỹ thuật cao, hàng giả xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và hàng hóa giả mạo xuất xứ. Trong đó, đáng lo ngại nhất là thuốc chữa bệnh, sữa, thực phẩm, thực phẩm chức năng, những mặt hàng ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người.
2. Một số khó khăn, vướng mắc
Thời gian qua, Việt Nam đã quyết liệt thực hiện công tác phòng, chống hàng giả và đạt được những kết quả đáng ghi nhận, góp phần ổn định thị trường hoạt động thương mại, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, tăng thu ngân sách cho Nhà nước và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, do những đặc thù của từng lĩnh vực, địa bàn quản lý, việc áp dụng cơ chế, chính sách của từng địa phương và các nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả tại Việt Nam còn diễn biến phức tạp, khó lường do những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi, cụ thể:
Một là, các quy định pháp luật về xử lý hành vi buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn tồn tại nhiều bất cập. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm đấu tranh phòng, chống hàng giả được quy định ở nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành và giao nhiều cơ quan theo lĩnh vực, địa bàn quản lý. Đồng thời, các văn bản pháp luật thiếu thống nhất, đồng bộ, bao quát toàn diện, dẫn đến nhận thức, trách nhiệm của một số người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương, đơn vị, lực lượng chức năng chưa cao, có biểu hiện né tránh, đùn đẩy khi xảy ra vụ việc vi phạm. Điều này gây khó khăn trong việc xác định trách nhiệm của các cơ quan quản lý, áp dụng chế tài, tạo ra những khoảng trống pháp lý mà các đối tượng lợi dụng để thực hiện hành vi sản xuất, kinh doanh hàng giả. Ngoài ra, việc chưa phân định rõ ràng, minh bạch giữa xử lý hành chính và xử lý hình sự đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm hoặc xử lý chưa đủ sức để răn đe.
Hai là, thiếu quy định pháp luật về truy xuất nguồn gốc hàng hóa. Hiện, quy định pháp luật chưa bắt buộc doanh nghiệp áp dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc hàng hóa để minh bạch thông tin hàng hóa và chống hàng giả như tem mã vạch, mã QR code, NBC-Trace, Verify, Blockchain (công nghệ chuỗi khối) được xác thực pháp luật.
Ba là, quy định pháp luật về xử lý vi phạm về hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe. Lợi ích kinh tế siêu lợi nhuận là động cơ thúc đẩy hành vi vi phạm pháp luật. Lợi nhuận thu được từ việc sản xuất, buôn bán hàng giả rất cao, do không mất quá nhiều chi phí cho việc nghiên cứu, sản xuất và nộp thuế là động lực chính thúc đẩy hành vi vi phạm với quy mô lớn; đặc biệt, các mặt hàng có giá trị cao như dược phẩm, thực phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, linh kiện điện tử, trang thiết bị y tế… Các đường dây, tổ chức chuyên sản xuất, buôn bán hàng giả hoạt động ngụy trang theo mô hình doanh nghiệp và đầu tư các trang thiết bị hiện đại để đối phó với lực lượng chức năng. Ví dụ, vụ án ngày 16/5/2025, Công an thành phố Hà Nội bắt giữ Phạm Ngọc T và Đoàn Thị N cùng 04 đồng phạm về hành vi sản xuất hơn 100 tấn thuốc, thực phẩm chức năng, trang thiết bị y tế giả; vụ án ngày 16/4/2025, Công an tỉnh Phú Thọ khám xét Công ty Famimoto Việt Nam phát hiện, thu giữ hơn 71.000 lít dầu ăn, khoảng 40 tấn mì chính, 22 tấn hạt nêm, 09 tấn bột canh giả. Trong khi đó, chế tài xử lý hình sự về các tội danh liên quan đến hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả theo quy định tại các điều 192, 193, 194, 195 Bộ luật Hình sự năm 2015 và chế tài xử lý hành chính đối với các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả theo quy định tại các điều 9, 10, 11, 12 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa.
Bốn là, năng lực tổ chức thi hành pháp luật và phối hợp thực hiện công tác phòng, chống hàng giả giữa các lực lượng chức năng chưa thực sự đồng bộ, thống nhất. Việc triển khai công tác phòng, chống hàng giả còn riêng lẻ, phụ thuộc vào sự quan tâm, chỉ đạo thực hiện của từng ngành hoặc từng địa phương. Điều này dẫn đến sự thiếu chặt chẽ trong phối hợp, gây ra tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, thậm chí là bỏ lọt các vụ vi phạm quy mô lớn. Trên thực tế, ở nhiều địa phương, còn có tình trạng cán bộ sợ sai, sợ trách nhiệm và có quan điểm khác nhau nên chưa có sự chỉ đạo, triển khai phối hợp thực hiện kịp thời các biện pháp đấu tranh, xử lý, làm cho vụ việc kéo dài, áp dụng chế tài chưa phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, việc thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao và các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác phòng, chống hàng giả ở cơ sở cũng là trở ngại, khó khăn nghiêm trọng.
Năm là, các đối tượng sản xuất, buôn bán hàng giả luôn thay đổi phương thức hoạt động, lợi dụng sự phát triển của khoa học, công nghệ, thương mại điện tử hoạt động ngày càng tinh vi gây khó khăn cho việc phát hiện, xử lý vi phạm, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng chuyển đổi số quốc gia, thương mại điện tử trở thành xu hướng phát triển mạnh mẽ được ưu tiên lựa chọn trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Theo đó, các sàn thương mại điện tử như Lazada, Sendo, Shopee… hoặc các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Tiktok, Zalo… cũng không ngừng phát triển nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh trên nền tảng số, mang lại nhiều cơ hội phát triển cho các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh; đồng thời, mang đến trải nghiệm mua sắm thuận tiện cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, các đối tượng lợi dụng các kẽ hở pháp luật về thương mại điện tử chưa được hoàn thiện, như sử dụng tính ẩn danh, quảng cáo sai sự thật, sử dụng hình ảnh người nổi tiếng hoặc mạo danh chuyên gia y tế[4], livestream bán hàng trực tuyến, sử dụng QR code giả, che dấu hoặc cung cấp thông tin mạo danh, thông tin không đúng để trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát, quản lý của Nhà nước. Mặc dù, các lực lượng chức năng đã phát hiện và xử lý nhiều gian hàng và sản phẩm vi phạm trên các sàn thương mại điện tử, nhưng số lượng vụ việc vi phạm vẫn tiếp tục gia tăng và diễn biến phức tạp.
Bên cạnh đó, để đối phó với sự kiểm tra, kiểm soát của các lực lượng chức năng, các đối tượng sản xuất, buôn bán hàng giả liên tục thay đổi phương thức hoạt động, thủ đoạn ngày càng tinh vi, khai thác tận dụng tối đa “kẽ hở” của pháp luật, khoảng trống của công tác quản lý nhà nước. Đặc biệt, các đối tượng lợi dụng quy định cho phép doanh nghiệp tự công bố và tự chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm để trục lợi, liên kết thuê người nổi tiếng, bác sĩ và chuyên gia để quảng bá, giới thiệu, phóng đại chất lượng, tính năng, công dụng của sản phẩm, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Mặt khác, những vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện chủ trương cải cách thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số quốc gia (về thể chế, chính sách; về triển khai thực hiện; về cơ sở hạ tầng dữ liệu…) chưa được tháo gỡ làm ảnh hưởng đến khả năng thu thập thông tin, điều tra và xử lý các vụ việc, đặc biệt là các vụ vi phạm trên môi trường mạng.
Sáu là, nhận thức của người tiêu dùng và doanh nghiệp còn hạn chế. Theo Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, có tới 62% người tiêu dùng mua phải hàng giả, hàng nhái mà không biết[5]. Nguyên nhân là do một bộ phận người tiêu dùng có tâm lý ưa chuộng hàng hóa giá rẻ và thói quen tiêu dùng thiếu chọn lọc, ngay cả khi biết rõ hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ, dẫn đến việc chưa hình thành kỹ năng phân biệt hàng giả và chưa có ý thức chủ động tố cáo với cơ quan chức năng. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam, thường e ngại việc thương hiệu bị làm giả sẽ ảnh hưởng đến uy tín, người tiêu dùng khi biết thương hiệu sản phẩm có hàng giả sẽ có tâm lý không mua, không sử dụng sản phẩm[6], nên chưa tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng trong xác minh và xử lý vi phạm hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp mình.
3. Đề xuất, giải pháp
Để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống hàng giả, cần triển khai hệ thống giải pháp đồng bộ, khả thi, từ hoàn thiện thể chế pháp luật đến tăng cường năng lực thực thi và nâng cao nhận thức xã hội như sau:
Thứ nhất, rà soát các quy định pháp luật về phòng, chống hàng giả còn vướng mắc, bất cập trong thực tiễn tổ chức thi hành để kiến nghị cấp có thẩm quyền hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống hàng giả. Trước tiên, cần nghiên cứu hoàn thiện trước một số quy định pháp luật sau:
- Nghiên cứu, ban hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất, định nghĩa và giải thích thuật ngữ về “hàng giả”, theo đó, định nghĩa này cần bao quát các khái niệm hiện hành như “hàng hóa không đảm bảo chất lượng”, “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý”, “hàng hóa có khuyết tật” và “hàng giả mạo sở hữu trí tuệ”… Đồng thời, đưa ra các đặc điểm, tiêu chí để phân biệt giữa các loại hàng giả đối với các hành vi vi phạm hành chính và vi phạm hình sự.
- Bổ sung hành vi “lợi dụng nền tảng số để buôn bán hàng giả” vào cấu thành tội phạm tăng nặng của các tội danh sản xuất, buôn bán hàng giả. Tăng nặng chế tài xử lý hành chính và hình sự đối với các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định về phân công trách nhiệm quản lý nhà nước, đặc biệt, trong lĩnh vực an toàn thực phẩm giữa Bộ Công thương và Bộ Y tế, bảo đảm đúng nguyên tắc “bảo đảm việc quản lý xuyên suốt toàn bộ quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm”, “bảo đảm nguyên tắc một cửa, một sản phẩm, một cơ sở sản xuất, kinh doanh chỉ chịu sự quản lý của một cơ quan quản lý nhà nước”[7] và tinh thần của Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả quy định: “Một cơ quan thực hiện nhiều việc, một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì và chịu trách nhiệm chính để khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ”, tránh tình trạng khó xác định trách nhiệm quản lý nhà nước.
- Tăng mức xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực quảng cáo, nhất là các hành vi vi phạm về quảng cáo sản phẩm, hàng hóa tại Mục 4 Chương III Nghị định số 38/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa và quảng cáo. Đồng thời, nghiên cứu bổ sung chế tài riêng hoặc tình tiết tăng nặng đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực quảng cáo do cá nhân, nghệ sĩ, người nổi tiếng có ảnh hưởng đối với công chúng thực hiện, bảo đảm thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống hàng giả theo tinh thần Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 17/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong tình hình mới.
Thứ hai, quy định rõ trách nhiệm pháp lý của sàn thương mại điện tử, nền tảng số, mạng xã hội và người bán hàng. Nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm công tác phòng, chống hàng giả, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của một số quốc gia, khu vực trên thế giới có môi trường kinh doanh trên môi trường điện tử phát triển. Năm 2023, Liên minh châu Âu (EU) đã ban hành Đạo luật Dịch vụ kỹ thuật số (DSA), có hiệu lực từ ngày 25/8/2023, bắt buộc các công ty công nghệ, công cụ tìm kiếm, cửa hàng ứng dụng và các nền tảng mạng xã hội có trách nhiệm kiểm duyệt nội dung nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của người sử dụng nền tảng trực tuyến. Đầu năm 2024, EU đánh giá Đạo luật Dịch vụ kỹ thuật số được bảo đảm thực thi có hiệu quả, theo đó, các công ty lớn về công nghệ, kinh doanh trực tuyến trong diện bị quản chế nếu không tuân thủ đạo luật này có thể phải nộp tiền phạt tương ứng 6% doanh thu toàn cầu của họ. Tòa án cũng có thể đình chỉ các nền tảng nếu từ chối hợp tác[8].
Hiện, tại Việt Nam, trách nhiệm pháp lý của sàn thương mại điện tử và nền tảng số, mạng xã hội được quy định tại Điều 36 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về thương mại điện tử, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 08/2018/NĐ-CP, Nghị định số 85/2021/NĐ-CP (Nghị định số 52/2013/NĐ-CP) và chế tài xử phạt vi phạm hành chính về thương mại điện tử được quy định tại các điều 62, 63, 64, 65, 66 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP. Tuy nhiên, chưa có chế tài đối với các hành vi vi phạm của sàn thương mại điện tử như: (i) không xác thực danh tính của người bán hoặc cho phép người bán hàng không có hồ sơ, giấy tờ về xuất nhập khẩu (ẩn danh); không có ủy thác bán hàng, chỉ định đại lý; (ii) không phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước ngăn chặn các giao dịch hàng hóa, dịch vụ vi phạm pháp luật; không thực hiện nghĩa vụ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chất lượng sản phẩm, hàng hóa; không báo cáo theo quy định; (iii) không thành lập văn phòng đại diện hoặc chỉ định đại diện theo ủy quyền tại Việt Nam.
Khoản 1 Điều 37 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP quy định trách nhiệm của người bán trên sàn giao dịch thương mại điện tử phải cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin quy định tại Điều 29 Nghị định này cho thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử khi đăng ký sử dụng dịch vụ, gồm: tên và địa chỉ trụ sở của thương nhân, tổ chức hoặc tên và địa chỉ thường trú của cá nhân; số, ngày cấp và nơi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của thương nhân hoặc số, ngày cấp và đơn vị cấp quyết định thành lập của tổ chức hoặc mã số thuế cá nhân của cá nhân; số điện thoại hoặc phương thức liên hệ trực tuyến khác để tiếp nhận phản ánh về chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, yêu cầu cung cấp những thông tin này chưa thực sự đầy đủ để phục vụ kịp thời cho công tác điều tra, truy xét, xử lý người bán hàng trên sàn thương mại điện tử khi có hành vi buôn bán hàng giả. Vì vậy, để các sàn thương mại điện tử, mạng xã hội, nền tảng số nhận thức, xác định được trách nhiệm pháp lý, từ kinh nghiệm của EU, Việt Nam cần nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc để bổ sung các hành vi vi phạm của sàn thương mại điện tử vào Nghị định số 98/2020/NĐ-CP. Đồng thời, cần quy định mức chế tài xử phạt với hình thức xử phạt chính, hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả tương xứng với doanh thu của sàn thương mại điện tử trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh đó, cần sửa đổi, bổ sung Điều 29 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP theo hướng thương nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng trên sàn thương mại điện tử phải cung cấp đầy đủ, thông tin định danh doanh nghiệp, thông tin định danh cá nhân có xác thực pháp luật để bảo đảm minh bạch thông tin, góp phần phòng ngừa các thương nhân, tổ chức, cá nhân có ý định buôn bán hàng giả trên sàn thương mại điện tử.
Thứ ba, bổ sung quy định về áp dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc hàng hóa. Công nghệ truy xuất nguồn gốc hàng hóa đang trở thành “vũ khí” không thể thiếu để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, giữ gìn uy tín cho doanh nghiệp và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong bối cảnh thị trường ngày càng phức tạp. Do đó, để bảo đảm minh bạch thông tin, kịp thời nhận diện, ngăn chặn và xử lý hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, xem xét sửa đổi, bổ sung quy định nội dung bắt buộc phải thể hiện trên nhãn hàng hóa tại Điều 10 Nghị định số 43/2017/NĐ-CP ngày 14/4/2017 của Chính phủ quy định về nhãn hàng hóa, sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 111/2021/NĐ-CP ngày 09/12/2021 (Nghị định số 43/2017/NĐ-CP) theo hướng quy định nhãn hàng hóa phải có một trong các thông tin như: tem mã vạch, mã QR code, NBC-Trace, Verify, Blockchain… được xác thực pháp luật, giúp người tiêu dùng và cơ quan chức năng nhanh chóng truy xuất được thông tin chính xác của nguồn gốc của hàng hóa.
Thứ tư, nâng cao năng lực tổ chức thi hành nhiệm vụ kiểm tra phòng, chống hàng giả. Các lực lượng chức năng được giao thẩm quyền quản lý nhà nước, đấu tranh phòng, chống hàng giả cần thường xuyên rà soát, phân tích, đánh giá yêu cầu của nhiệm vụ để xây dựng bản mô tả vị trí việc làm gắn với khung năng lực vị trí việc làm, kết hợp với so sánh, đánh giá, phân loại chất lượng cán bộ thực thi nhiệm vụ. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, tuyển dụng mới, luân chuyển hoặc cho thôi việc, để cán bộ được giao thực thi nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống hàng giả đáp ứng yêu cầu về chất lượng, năng lực chuyên môn. Ngoài ra, cần thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, ý chí, tinh thần trách nhiệm cao và ý thức chấp hành pháp luật, điều lệ, kỷ luật, kỷ cương hành chính công việc của cán bộ làm công tác phòng, chống hàng giả. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và kiên quyết xử lý cán bộ, công chức, viên chức có hành vi sai phạm trong thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, triển khai thực hiện nghiêm minh các quy định về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để răn đe, phòng ngừa cán bộ, công chức, viên chức có hành vi sai phạm trong công tác đấu tranh phòng, chống hàng giả.
Thứ năm, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao vai trò của người tiêu dùng và doanh nghiệp. Để công tác phòng, chống hàng giả đạt hiệu quả cao, cần sự vào cuộc tích cực của người tiêu dùng và cộng đồng doanh nghiệp. Theo đó, các cấp, các ngành, địa phương cần có kế hoạch xây dựng “chiến dịch” truyền thông để tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật, kỹ năng nhận diện hàng giả, phương thức, thủ đoạn sản xuất, buôn bán hàng giả, trình tự, thủ tục, cách thức tố cáo hành vi vi phạm, biện pháp, hình thức xử lý với nội dung đa dạng, phong phú, phù hợp với mọi tầng lớp Nhân dân, như: tổ chức các chương trình, sự kiện “Người tiêu dùng thông thái”; phim ngắn trên mạng xã hội; hội chợ triển lãm trưng bày hàng thật - hàng giả; game show phân biệt hàng thật - hàng giả, infographic tuyên truyền, nhất là trên các nền tảng số, mạng xã hội, sàn thương mại điện tử, nhằm nâng cao nhận thức, vai trò của người tiêu dùng và doanh nghiệp trong phòng, chống hàng giả. Bên cạnh đó, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, ban hành quy định pháp luật về việc chi, trả kinh phí hỗ trợ cho cá nhân, tổ chức cung cấp thông tin phản ánh hành vi vi phạm và khen thưởng cho tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác phòng, chống hàng giả.
Thứ sáu, tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chức năng trong công tác phòng, chống hàng giả. Lực lượng Quản lý thị trường giữ vị trí, vai trò quan trọng công tác phòng, chống hàng giả, vì vậy, cần thường xuyên trao đổi thông tin, tình hình, âm mưu, phương thức, thủ đoạn của các đối tượng hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả diễn ra trên các địa bàn, lĩnh vực. Tăng cường phối hợp thanh tra, kiểm tra sau khi doanh nghiệp thực hiện thủ tục tự công bố chất lượng sản phẩm và đưa sản phẩm ra thị trường; kiểm soát hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Bên cạnh đó, cần phối hợp để tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về dấu hiệu pháp lý phân biệt hàng giả, tiêu chuẩn, thông số kỹ thuật của hàng thật và hàng giả cho các cán bộ làm công tác phòng, chống hàng giả.
Thứ bảy, một số giải pháp khác như: đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác kiểm tra, kiểm soát hàng hóa cho lực lượng chuyên trách phòng, chống hàng giả; trong đó, ưu tiên các trang thiết bị hiện đại kiểm nghiệm, xét nghiệm, giám định nhanh tại hiện trường. Đồng thời, cần nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về hàng giả, phòng, chống hàng giả để các lực lượng chức năng trao đổi, chia sẻ, thu thập, xử lý thông tin nghiệp vụ và cảnh báo quản lý rủi ro trong các lĩnh vực hàng hóa. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế thông qua việc thực hiện tốt các văn bản thỏa thuận hợp tác song phương đã ký kết và chủ động kết nối, xúc tiến, nâng tầm mối quan hệ, ký kết mới các văn bản thỏa thuận hợp tác chiến lược, toàn diện, lâu dài về công tác phòng, chống hàng giả.
Kết luận
Trên cơ sở đánh giá thực trạng hàng giả và thực tiễn tổ chức thi hành pháp luật về công tác phòng, chống hàng giả tại Việt Nam, đồng thời, phân tích, xác định các vấn đề đang gặp khó khăn, vướng mắc về quy định của pháp luật và thực tiễn tổ chức triển khai thực hiện, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống hàng giả. Trong thời gian tới, cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật toàn diện, thống nhất, đồng bộ, khả thi để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống hàng giả, nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, doanh nghiệp, góp phần bảo đảm an ninh kinh tế, trật tự, an toàn xã hội quốc gia./.
ThS. Phạm Minh Hải
Phòng Nghiệp vụ Ban Chỉ huy bộ đội biên phòng tỉnh Đồng Nai
Ảnh: internet
[1]. Cổng thông tin điện tử Chính phủ (2025), Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc về chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, https://baochinhphu.vn/thu-tuong-pham-minh-chinh-chu-tri-hoi-nghi-truc-tuyen-toan-quoc-ve-chong-buon-lau-gian-lan-thuong-mai-hang-gia-102250624093112237.htm, truy cập ngày 24/6/2025.
[2]. Cổng thông tin điện tử Chính phủ (2025), tlđd.
[3]. Bích Hà (2025), Chống hàng giả để tạo niềm tin cho người dân và doanh nghiệp, https://tapchitaichinh.vn/chong-hang-gia-de-tao-niem-tin-cho-nguoi-dan-va-doanh-nghiep.html, truy cập ngày 24/6/2025.
[4]. Đại Việt (2025), Hàng giả lộng hành, trách nhiệm của sàn thương mại điện tử ở đâu?, https://vtcnews.vn/hang-gia-long-hanh-trach-nhiem-cua-san-thuong-mai-dien-tu-o-dau-ar950322.html, truy cập ngày 24/6/2025.
[5]. Vân An (2021), Người tiêu dùng phải làm gì giữa ma trận hàng giả, hàng nhái?, https://vov2.vov.vn/doi-song-xa-hoi/nguoi-tieu-dung-phai-lam-gi-giua-ma-tran-hang-gia-hang-nhai-23965.vov2, truy cập ngày 26/6/2025.
[6]. Việt Hằng (2023), Bảo vệ thương hiệu trước hàng giả, hàng nhái: Đồng bộ nhiều biện pháp tác động tới doanh nghiệp và người tiêu dùng, https://tapchicongthuong.vn/bao-ve-thuong-hieu-truoc-hang-gia–hang-nhai–dong-bo-nhieu-bien-phap-tac-dong-toi-doanh-nghiep-va-nguoi-tieu-dung-106757.htm, truy cập ngày 26/6/2025.
[7]. Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm, được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 155/2018/NĐ-CP ngày 12/11/2018 của Chính phủ.
[8]. Hà Dung (2023), Đạo luật dịch vụ kỹ thuật số của EU, https://nhandan.vn/dao-luat-dich-vu-ky-thuat-so-cua-eu-post770255.html, truy cập ngày 26/6/2025.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cổng thông tin điện tử Chính phủ (2025), Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc về chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, https://baochinhphu.vn/thu-tuong-pham-minh-chinh-chu-tri-hoi-nghi-truc-tuyen-toan-quoc-ve-chong-buon-lau-gian-lan-thuong-mai-hang-gia-102250624093112237.htm, truy cập ngày 24/6/2025.
2. Bích Hà (2025), Chống hàng giả để tạo niềm tin cho người dân và doanh nghiệp, https://tapchitaichinh.vn/chong-hang-gia-de-tao-niem-tin-cho-nguoi-dan-va-doanh-nghiep.html, truy cập ngày 24/6/2025.
3. Đại Việt (2025), Hàng giả lộng hành, trách nhiệm của sàn thương mại điện tử ở đâu?, https://vtcnews.vn/hang-gia-long-hanh-trach-nhiem-cua-san-thuong-mai-dien-tu-o-dau-ar950322.html, truy cập ngày 24/6/2025.
4. Vân An (2021), Người tiêu dùng phải làm gì giữa ma trận hàng giả, hàng nhái?, https://vov2.vov.vn/doi-song-xa-hoi/nguoi-tieu-dung-phai-lam-gi-giua-ma-tran-hang-gia-hang-nhai-23965.vov2, truy cập ngày 26/6/2025.
5. Việt Hằng (2023), Bảo vệ thương hiệu trước hàng giả, hàng nhái: Đồng bộ nhiều biện pháp tác động tới doanh nghiệp và người tiêu dùng, https://tapchicongthuong.vn/bao-ve-thuong-hieu-truoc-hang-gia–hang-nhai–dong-bo-nhieu-bien-phap-tac-dong-toi-doanh-nghiep-va-nguoi-tieu-dung-106757.htm, truy cập ngày 26/6/2025.
6. Hà Dung (2023), Đạo luật dịch vụ kỹ thuật số của EU, https://nhandan.vn/dao-luat-dich-vu-ky-thuat-so-cua-eu-post770255.html, truy cập ngày 26/6/2025.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số Kỳ 2 (437) tháng 9/2025))