Thứ bảy 06/12/2025 10:25
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực tiễn áp dụng quy định tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài và một số kiến nghị

Tóm tắt: Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thay thế, ngoài Tòa án được điều chỉnh bởi Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về việc áp dụng các quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài, dẫn đến việc áp dụng và giải thích pháp luật thiếu nhất quán. Bài viết phân tích, làm rõ về việc áp dụng quy định trong tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài qua một số vụ việc thực tế để đánh giá tính hợp lý trong việc áp dụng; từ đó, đưa ra một số đề xuất bảo đảm tính thống nhất trong giải thích và áp dụng pháp luật.

Abstract: Arbitration is an alternative dispute resolution method outside the court, regulated by the Law on Commercial Arbitration 2010. However, in practice, there are still many different views on the application of the provisions of the Court proceedings to arbitration proceedings, leading to inconsistent application and interpretation of the law. This article analyzes and clarifies the application of the provisions of the Court proceedings to arbitration proceedings through a number of actual cases to assess the reasonableness of the application; from there, it makes a number of proposals to ensure consistency in the interpretation and application of the law.

Đặt vấn đề

Một số quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được thể hiện là áp dụng cho Tòa án, trong khi pháp luật trọng tài không có các quy định tương tự áp dụng trong tố tụng trọng tài. Vậy, các quy định áp dụng cho Tòa án có mặc định áp dụng trong tố tụng trọng tài hay không. Vấn đề này còn có những quan điểm khác nhau trong thực tiễn áp dụng. Quan điểm thứ nhất cho rằng, Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là bộ luật gốc, do đó, những quy định áp dụng cho tố tụng Tòa án phải được áp dụng cho tố tụng trọng tài. Quan điểm thứ hai cho rằng, tố tụng trọng tài là tố tụng riêng biệt, được điều chỉnh bởi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 nên không áp dụng quy định tương tự của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài. Từ thực tiễn, nghiên cứu, phân tích, làm rõ về việc áp dụng quy định trong tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài qua một số vụ việc cụ thể; từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất góp phần bảo đảm tính thống nhất trong giải thích và áp dụng pháp luật về vấn đề này.

1. Thực tiễn áp dụng quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài

Nghiên cứu đưa ra hai tình huống pháp lý thực tế thể hiện quan điểm khác nhau của các thẩm phán và trọng tài viên về vấn đề này.

Tình huống thứ nhất: Vụ tranh chấp số 79/21 tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC).

Nguyên đơn - công ty có trụ sở tại Singapore, đã nộp các tài liệu khởi kiện, trong đó có Nghị quyết Hội đồng quản trị của nguyên đơn về việc ủy quyền cho cá nhân đại diện khởi kiện bị đơn tại VIAC. Tài liệu này không được hợp pháp hóa lãnh sự khi gửi tới Hội đồng trọng tài xét xử vụ tranh chấp này. Do đó, bị đơn đã căn cứ vào Điều 478 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: “Công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài gửi cho Tòa án Việt Nam” để phản đối tính hợp pháp của tài liệu trên trong quá trình tố tụng. Điều luật này thể hiện chủ thể nhận giấy tờ, tài liệu mà điều luật điều chỉnh là Tòa án Việt Nam.

Hội đồng trọng tài vụ việc này cho rằng, “Hội đồng trọng tài là cơ quan tiếp nhận (tài liệu từ nước ngoài) của Việt Nam có quyền không yêu cầu các tài liệu ủy quyền của nguyên đơn phải được hợp pháp hóa lãnh sự. Hội đồng trọng tài cũng cho rằng Luật Trọng tài thương mại và các quy định khác của Việt Nam liên quan đến tố tụng trọng tài không có bất kỳ yêu cầu hợp pháp hóa lãnh sự nào đối với các tài liệu nước ngoài được sử dụng trong tố tụng trọng tài tại Việt Nam”[1].

Trong khi, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, tại Quyết định số 12/2023/QĐ-PQTT ngày 04/7/2023 về việc hủy phán quyết trọng tài, đã diễn giải: “khoản 1 Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Bộ luật này là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự”. Khoản 2 Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này”; khoản 3 Điều này quy định: “trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm khoản 2 Điều này thì quy định của Bộ luật này được áp dụng”. Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định, Bộ luật Tố tụng dân sự góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Như vậy, có thể hiểu, đây là những đạo luật gốc, cơ bản, khi các luật khác không quy định thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 hoặc Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (được coi là quy định pháp luật tương ứng) để giải quyết.

Trong vụ việc này, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và các văn bản hướng dẫn Luật không quy định thì được áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Theo đó, Điều 478 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “giấy tờ, tài liệu và bản dịch tiếng Việt có công chứng, chứng thực đã được hợp pháp hóa lãnh sự”. Vì vậy, VIAC đã thụ lý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận tư cách tham gia tố tụng của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn khi các tài liệu này chưa được hợp pháp hóa lãnh sự, trong khi bị đơn phản đối là không đúng quy định[2].

Như vậy, trong vụ việc này, Hội đồng trọng tài và Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã có quan điểm trái ngược nhau trong việc áp dụng quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài.

Tình huống thứ hai: Vụ tranh chấp số 28/16 tại VIAC.

Trong tình huống pháp lý này, tranh luận giữa các bên liên quan đến vấn đề xác định thời hiệu khởi kiện trong tố tụng trọng tài. Dưới góc độ nghiên cứu, có thể coi vấn đề thời hiệu khởi kiện thuộc về tố tụng, mặc dù, trên thực tế, đây là vấn đề đang tồn tại các quan điểm khác nhau[3].

Đại diện của bị đơn trong vụ tranh chấp này đã phản đối việc Hội đồng trọng tài áp dụng Điều 162 Bộ luật Dân sự năm 2005 về việc “bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện” vụ án dân sự. Bị đơn đã viện dẫn khái niệm về thời hiệu khởi kiện tại khoản 3 Điều 155 Bộ luật Dân sự năm 2005: “thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện” và lập luận rằng khái niệm thời hiệu khởi kiện trong Bộ luật Dân sự năm 2005 được định nghĩa là thời hiệu cho tố tụng tại Tòa án và không đề cập đến tố tụng trọng tài. Do đó, quy định về “bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện” trong Bộ luật Dân sự năm 2005 là quy định áp dụng cho khởi kiện tại Tòa án.

Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (là văn bản pháp luật ra đời sau Bộ luật Dân sự năm 2005) quy định về thời hiệu khởi kiện theo tố tụng trọng tài nhưng không quy định trực tiếp hay dẫn chiếu đến việc áp dụng các quy định về thời hiệu khởi kiện tại Bộ luật Dân sự năm 2005 vào tố tụng trọng tài. Do đó, đại diện của bị đơn cho rằng, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã chủ ý không quy định về việc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện trong tố tụng trọng tài. Vì vậy, đại diện của bị đơn đã phản đối việc áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện trong tố tụng tại Tòa án vào tố tụng trọng tài.

Trong khi đó, tại Quyết định số 01/2018/QĐ-PQTT ngày 04/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về việc không hủy phán quyết trọng tài cho rằng, Hội đồng trọng tài áp dụng Điều 162 Bộ luật Dân sự năm 2005 về việc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện là hoàn toàn có cơ sở[4], mặc dù, Tòa án không đưa ra diễn giải cụ thể về vấn đề áp dụng tương ứng quy định cho tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài. Như vậy, trong vụ tranh chấp này, Hội đồng trọng tài và Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có cùng quan điểm về việc áp dụng quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài.

Hai vụ việc trên đã thể hiện sự thiếu nhất quán trong cách hiểu, diễn giải và áp dụng các quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài. Việc áp dụng không thống nhất dẫn đến nguy cơ áp dụng pháp luật thiếu đồng nhất trong các cơ quan phán xử, ảnh hưởng đến tính ổn định của các phán quyết trọng tài, gia tăng rủi ro pháp lý và làm giảm niềm tin của nhà đầu tư, doanh nghiệp vào cơ chế trọng tài tại Việt Nam.

Nguyên nhân chính dẫn đến những quan điểm khác nhau trong áp dụng quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài xuất phát từ việc Việt Nam chưa có quy định hay lý thuyết chi tiết về các nguyên tắc trong việc diễn giải pháp luật. Mặc dù, trên lý thuyết, thẩm quyền diễn giải luật thuộc về Ủy ban Thường vụ Quốc hội[5] và các nguyên tắc diễn giải được nêu một cách sơ bộ tại Điều 60 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 (trước đây là tại Điều 158 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015). Tuy nhiên, khi các tranh chấp xảy ra, việc diễn giải pháp luật để giải quyết tranh chấp đó trước tiên và thực tế sẽ phụ thuộc vào ý chí của chủ thể có quyền ra phán quyết đối với tranh chấp. Cùng một quy định nhưng cách hiểu của mỗi chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp còn thiếu nhất quán, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không đồng nhất, mang thiên hướng chủ quan. Điều này dẫn đến thiếu tính logic, không khách quan và thiếu tính thuyết phục của các phán quyết, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia tố tụng.

2. Đánh giá việc áp dụng quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài

2.1. Việc áp dụng quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài từ góc độ giải thích pháp luật

Trong tình huống áp dụng quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài, quan điểm ủng hộ việc áp dụng thường lý giải tương tự như tình huống pháp lý thứ nhất, đó là “khi các luật khác không quy định thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự hoặc Bộ luật Tố tụng dân sự (được coi là quy định pháp luật tương ứng) để giải quyết. Trong vụ việc này, Luật Trọng tài thương mại và các văn bản hướng dẫn Luật Trọng tài thương mại không quy định thì được áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự”[6].

Tuy nhiên, việc lý giải do Luật Trọng tài thương mại năm 2010 không quy định nên áp dụng tương ứng quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài là chưa thực sự phù hợp với các nguyên tắc giải thích pháp luật được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và các nguyên tắc phổ biến trên thế giới.

Ví dụ, việc diễn giải Điều 478 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài gửi cho Tòa án Việt Nam trong Vụ tranh chấp số 79/21 tại VIAC. Nếu tuân thủ theo nguyên tắc “việc giải thích luật phải phù hợp với nội dung, ngôn ngữ của Hiến pháp, luật, pháp lệnh” tại điểm b khoản 2 Điều 158 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 hoặc nguyên tắc “phù hợp với nghĩa phổ thông của từ ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật đó” tại điểm a khoản 2 Điều 60 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025, thì nội dung của Điều 478 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã ghi rõ là áp dụng cho “tài liệu do cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài gửi cho Tòa án Việt Nam” cần phải được hiểu là Điều luật này áp dụng cho việc gửi tài liệu tới “Tòa án Việt Nam” mà không phải là một cơ quan nào khác.

Với Điều 478 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nếu nhà làm luật có ý chí áp dụng Điều luật này cho các cơ quan khác ngoài Tòa án thì có thể cụm từ “Tòa án hoặc trọng tài Việt Nam” hoặc “cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp” đã được sử dụng trong điều luật mà không phải chỉ giới hạn ở cụm từ “Tòa án Việt Nam”.

Việc giải thích luật căn cứ theo nội dung, ngôn ngữ của điều luật tại điểm b khoản 2 Điều 158 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 60 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 cũng phù hợp với việc giải thích luật theo nguyên tắc ngữ nghĩa thuần (literal rules)[7] phổ biến trong hệ thống Common Law, nguyên tắc này yêu cầu Tòa án phải tôn trọng trước tiên ý nghĩa nguyên văn của từ ngữ và cấu trúc câu để giải thích ý nghĩa.

Ngoài ra, việc giải thích do Luật Trọng tài thương mại năm 2010 không quy định nên áp dụng tương ứng quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài vô hình trung đã sửa đổi nội dung của điều luật trong tố tụng Tòa án và tạo ra quy định mới, do đó, vi phạm nguyên tắc tại điểm c khoản 2 Điều 158 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, đó là: “không được sửa đổi, bổ sung hoặc đặt ra quy định mới”. Điều này cũng không phù hợp với nguyên tắc phổ biến khác trên thế giới là nguyên tắc sửa lỗi (mischief rules)[8] trong hệ thống common law, nguyên tắc này không chỉ cân nhắc ngữ nghĩa câu chữ của điều luật mà còn cân nhắc cả mục đích lập pháp khi điều luật được ban hành nhằm giải quyết những “lỗ hổng” của pháp luật trước đó. Nếu theo nguyên tắc này, việc giải thích luật phải làm rõ được sự liên quan giữa các đạo luật và mục đích ban hành của quy định được diễn giải nhằm giải quyết “lỗ hổng” nào của quy định trước đó. Trong trường hợp này, nếu áp dụng nguyên tắc sửa lỗi thì phải làm rõ được sự liên quan giữa Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Luật Trọng tài thương mại năm 2010, mục đích ban hành của điều luật được diễn giải (ví dụ, Điều 478 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015) nhằm giải quyết “lỗ hổng” nào của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 hay Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Việc giải thích Luật Trọng tài thương mại năm 2010 không quy định nên áp dụng tương ứng quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài đã không tuân thủ nguyên tắc này vì đã bỏ qua mục đích lập pháp khi ban hành pháp luật về trọng tài, đó là tạo ra cơ chế giải quyết tranh chấp khác độc lập với cơ chế tại Tòa án, đồng thời, cũng không chỉ rõ đâu là “lỗ hổng” của các luật trước đó mà điều luật được diễn giải (ví dụ, Điều 478 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015) để giải quyết.

2.2. Việc áp dụng quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài từ góc độ áp dụng tương tự pháp luật

Việc giải thích do Luật Trọng tài thương mại năm 2010 không quy định nên áp dụng tương ứng quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài có bản chất là áp dụng tương tự pháp luật được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015[9]. Thực tiễn cho thấy, mục đích chính của việc áp dụng tương tự pháp luật nhằm mục đích khắc phục việc thiếu nguồn luật để điều chỉnh một vấn đề pháp lý. Trong quá trình làm luật, các nhà làm luật đều cố gắng dự kiến đến mức tối đa các trường hợp, điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong đời sống xã hội để điều chỉnh kịp thời, nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, các tranh chấp diễn ra trên thực tế không phải lúc nào cũng có các quy phạm trực tiếp điều chỉnh vụ việc đó. Đây chính là tình trạng thiếu pháp luật, tình trạng pháp luật có những lỗ hổng, những khoảng trống nhất định[10]. Trong trường hợp này, để bảo đảm công lý, bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể trong quan hệ dân sự, chủ thể có thẩm quyền không thể chờ đến khi ban hành quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh vụ việc mới giải quyết mà phải giải quyết ngay bằng cách thừa nhận việc áp dụng tương tự pháp luật[11]. Như vậy, mục đích của áp dụng tương tự pháp luật là nhằm đưa ra một nguồn luật để cơ quan giải quyết tranh chấp có thể căn cứ vào để giải quyết được những quan hệ pháp luật mới mà luật pháp chưa có quy định điều chỉnh.

Về vấn đề áp dụng tương tự quy định trong tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài, nghiên cứu cho thấy, việc áp dụng tương tự tại các tình huống pháp lý thực tế trên là chưa thực sự phù hợp với bản chất và mục đích của áp dụng tương tự pháp luật. Áp dụng tương tự pháp luật nhằm mục đích xử lý khi không có nguồn luật điều chỉnh trực tiếp một vấn đề pháp lý và nếu không áp dụng tương tự pháp luật thì cơ quan giải quyết không có cơ sở pháp lý để giải quyết được vấn đề đó. Do đó, nếu các vấn đề pháp lý đó hoàn toàn có thể giải quyết được dựa vào nguồn luật về trọng tài thì việc áp dụng quy định của tố tụng Tòa án là sai bản chất, mục đích của việc áp dụng tương tự pháp luật.

Ngoài ra, không có cơ sở để cho rằng, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 có những “lỗ hổng” và cần áp dụng tương tự pháp luật để xử lý. Bởi, vấn đề áp dụng tương tự pháp luật thường đặt ra cho các tình huống mà luật có “lỗ hổng” nào đó, ở một bối cảnh mới và chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên, nếu nhìn ở khía cạnh lịch sử lập pháp thì Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự từ năm 1995 đến nay đều không dẫn chiếu việc áp dụng tương tự các quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài. Với những quy phạm áp dụng cho Tòa án, các nhà làm luật dùng câu chữ dẫn chiếu cụ thể đến Tòa án thay vì quy định Tòa án và trọng tài hay cơ quan giải quyết tranh chấp. Cách diễn giải này lặp lại trong nhiều lần ban hành Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Pháp lệnh Trọng tài thương mại và Luật Trọng tài thương mại. Mặt khác, tố tụng trọng tài ra đời sau tố tụng Tòa án và mang những đặc trưng riêng biệt về tính linh động, nhanh gọn, tập trung vào tranh chấp trong lĩnh vực thương mại và tôn trọng tối đa thỏa thuận của các bên tranh chấp. Do đó, việc chưa có quy định như tố tụng Tòa án trong tố tụng trọng tài là hoàn toàn dễ hiểu và phù hợp với bản chất của loại hình tố tụng này.

3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Thứ nhất, cần xây dựng và pháp điển các nguyên tắc khi giải thích pháp luật. Việt Nam có thể nghiên cứu, tham khảo, tiếp thu có chọn lọc các nguyên tắc diễn giải pháp luật phổ biến trên thế giới đã được chấp nhận và áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia trong hệ thống Common Law, bởi hệ thống này đề cao việc giải thích pháp luật của Tòa án - chủ thể chính trong việc giải thích pháp luật để xử lý các tranh chấp. Theo đó, việc giải thích ý nghĩa của điều luật cần phù hợp với các nguyên tắc cơ bản, như: (i) nguyên tắc ngữ nghĩa thuần (literal rule): yêu cầu người giải thích điều luật phải tôn trọng trước tiên ý nghĩa nguyên văn của từ và cấu trúc câu để giải thích; (ii) nguyên tắc vàng (golden rules)[12]: áp dụng khi ngữ nghĩa thông thường của câu chữ tạo ra sự mơ hồ hoặc không nhất quán thì Tòa án sẽ có quyền giải thích theo cách rộng hơn để loại bỏ sự mơ hồ đó; (iii) nguyên tắc sửa lỗi (the mischief rule): nguyên tắc này không chỉ cân nhắc ngữ nghĩa câu chữ của điều luật mà còn cân nhắc cả mục đích lập pháp khi luật mới được ban hành nhằm giải quyết những “lỗ hổng” của luật cũ.

Thứ hai, trong quá trình lập pháp, các nhà làm luật (đặc biệt, pháp luật trọng tài và Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015), cần phải rà soát tổng thể các chế định pháp luật áp dụng tại tố tụng Tòa án để quyết định các chế định nào sẽ áp dụng trong tố tụng trọng tài, các chế định nào sẽ không được áp dụng trong tố tụng trọng tài và phản ánh cụ thể ý chí này vào các văn bản quy phạm pháp luật về trọng tài trong thời gian sớm nhất.

Kết luận

Như vậy, nghiên cứu, phân tích, làm rõ về việc áp dụng quy định trong tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài qua các vụ việc thực tế để đánh giá về tính hợp lý trong việc áp dụng. Từ thực trạng áp dụng các quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài đang tồn tại những quan điểm không thống nhất giữa các cơ quan giải quyết tranh chấp, nghiên cứu đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc thiếu nhất quán trong diễn giải và áp dụng pháp luật trong vấn đề này cũng như đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trên./.

LS. Trịnh Ngọc Tuấn

Công ty Luật TNHH TS Law

[1]. Quyết định số 12/2023/QĐ-PQTT ngày 04/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về việc hủy phán quyết trọng tài, tr. 20.

[2]. Quyết định số 12/2023/QĐ-PQTT ngày 04/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về việc hủy phán quyết trọng tài, tr. 21.

[3]. Tưởng Duy Lượng, Thời hiệu khởi kiện thuộc pháp luật nội dung hay pháp luật tố tụng - Đôi điều kiến nghị, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, https://tapchitoaan.vn/thoi-hieu-khoi-kien-thuoc-phap-luat-noi-dung-hay-phap-luat-to-tung-doi-dieu-kien-nghi?, truy cập ngày 07/5/2025.

[4]. Quyết định số 01/2018/QĐ-PQTT ngày 04/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về việc không hủy phán quyết trọng tài, tr. 6.

[5]. Xem khoản 3 Điều 60 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và khoản 2 Điều 159 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.

[6]. Quyết định số 12/2023/QĐ-PQTT ngày 04/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về việc hủy phán quyết trọng tài, tr. 21.

[7]. Riya Ramesh Pandey (2023), An Overview on the Literal Rule of Interpretation of Statute, International Journal of Law Management & Humanities, https://ijlmh.com/paper/an-overview-on-the-literal-rule-of-interpretation-of-statute/#, truy cập ngày 07/5/2025.

[8]. Shrikant P Thombre (2019), General principles of statutory interpretation with special reference to golden rule & mischief rule, International Journal of Law, https://www.lawjournals. org/assets/archives/2019/vol5issue6/5-6-45-706.pdf, truy cập ngày 07/5/2025.

[9]. Xem Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 6 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[10]. Nguyễn Thị Hồi (2009), Áp dụng pháp luật ở Việt nam hiện nay: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, tr. 86.

[11]. Dương Quỳnh Hoa (2017), Áp dụng pháp luật trong Bộ luật Dân sự năm 2015, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15(343) - tháng 8/2017.

[12]. Shrikant P Thombre (2019), General principles of statutory interpretation with special reference to golden rule & mischief rule, International Journal of Law, https://www.lawjournals. org/assets/archives/2019/vol5issue6/5-6-45-706.pdf, truy cập ngày 07/5/2025.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dương Quỳnh Hoa (2017), Áp dụng pháp luật trong Bộ luật Dân sự năm 2015, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Viện Nghiên cứu lập pháp, số 15(343) tháng 8/2017.

2. Nguyễn Thị Hồi (2009), Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp.

3. Riya Ramesh Pandey (2023), An Overview on the Literal Rule of Interpretation of Statute, International Journal of Law Management & Humanities, https://ijlmh.com/paper/an-overview-on-the-literal-rule-of-interpretation-of-statute/#, truy cập ngày 07/5/2025.

4. Shrikant P Thombre (2019), General principles of statutory interpretation with special reference to golden rule & mischief rule, International Journal of Law, https://www.lawjournals.org/assets/archives/2019/ vol5issue6/5-6-45-706.pdf, truy cập ngày 07/5/2025.

5. Tưởng Duy Lượng (2019), Thời hiệu khởi kiện thuộc pháp luật nội dung hay pháp luật tố tụng - Đôi điều kiến nghị, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, https://tapchitoaan.vn/thoi-hieu-khoi-kien-thuoc-phap-luat-noi-dung-hay-phap-luat-to-tung-doi-dieu-kien-nghi?, truy cập ngày 07/5/2025.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số Kỳ 1 (434) tháng 8/2025)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Pháp luật Việt Nam về quảng cáo thương mại trong kỷ nguyên số

Pháp luật Việt Nam về quảng cáo thương mại trong kỷ nguyên số

Tóm tắt: Trong bối cảnh các nền tảng trực tuyến phát triển mạnh mẽ, hoạt động quảng cáo thương mại tại Việt Nam ngày càng đa dạng về hình thức, đối tượng tác động nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với công tác quản lý nhà nước. Nghiên cứu cho thấy, pháp luật hiện hành còn nhiều khoảng trống trong điều chỉnh hành vi quảng cáo trên môi trường số, ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng. Trên cơ sở nghiên cứu, kinh nghiệm pháp luật một số quốc gia trên thế giới, bài viết làm rõ thực trạng pháp luật Việt Nam về quảng cáo thương mại trong kỷ nguyên số, chỉ ra những điểm hạn chế, từ đó, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về quảng cáo, tăng cường cơ chế giám sát và phối hợp giữa các cơ quan quản lý, hướng tới xây dựng môi trường quảng cáo số lành mạnh.
Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ động vật hoang dã ở Việt Nam

Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ động vật hoang dã ở Việt Nam

Tóm tắt: Những năm gần đây, hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ động vật hoang dã đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, còn nhiều bất cập trong quy định và tổ chức thực thi, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý Nhà nước. Trên cơ sở đánh giá, thực trạng pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng, nghiên cứu này đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ động vật hoang dã.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật - Cơ hội, thách thức và một số giải pháp

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật - Cơ hội, thách thức và một số giải pháp

Tóm tắt: Bài viết phân tích cơ hội và thách thức đặt ra cho hoạt động đào tạo luật trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo tạo sinh đang phát triển nhanh và tác động mạnh mẽ đến giáo dục pháp luật. Từ việc nhận diện các yêu cầu đổi mới theo định hướng của Đảng và Nhà nước, nghiên cứu đánh giá tiềm năng ứng dụng của trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật; đồng thời, chỉ ra những rủi ro liên quan như gian lận học thuật, sai lệch thông tin, định kiến thuật toán và các vấn đề đạo đức, pháp lý. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp hoàn thiện khi tích hợp trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật tại Việt Nam.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống hàng giả tại Việt Nam

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống hàng giả tại Việt Nam

Tóm tắt: Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, giải pháp quyết liệt về phòng, chống hàng giả, tuy nhiên, tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả vẫn diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và hình thức. Bài viết nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng vi phạm hàng giả và những khó khăn, vướng mắc trong công tác phòng, chống hàng giả tại Việt Nam hiện nay, từ đó, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật thu hút chuyên gia pháp luật Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Hoàn thiện chính sách, pháp luật thu hút chuyên gia pháp luật Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Bài viết phân tích sự cần thiết phải thu hút và trọng dụng chuyên gia, trí thức, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia pháp luật Việt Nam ở nước ngoài, nhằm tạo đột phá trong xây dựng và phát triển đất nước. Trên cơ sở phân tích, đánh giá một số quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện cho thấy chính sách thu hút chuyên gia pháp luật ở nước ngoài của Việt Nam chưa hiệu quả, chưa khai thác được tiềm năng khoa học, trí thức của kiều bào. Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp mang tính đột phá, gồm hoàn thiện cơ chế pháp lý, thiết lập tiêu chí, tiêu chuẩn lựa chọn, ban hành chính sách đãi ngộ phù hợp để thu hút và phát huy tối đa vai trò của lực lượng này phục vụ xây dựng, phát triển đất nước.
Một số vấn đề về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật tại Việt Nam - thực trạng và giải pháp

Một số vấn đề về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật tại Việt Nam - thực trạng và giải pháp

Tóm tắt: Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, vấn đề phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật là yêu cầu quan trọng được Đảng và Nhà nước đặt biệt quan tâm. Ngày 27/6/2024, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 178-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, hiện, các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật chưa quy định cụ thể, rõ ràng. Bài viết nghiên cứu một số vấn đề về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.
Hoàn thiện pháp luật về cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú

Hoàn thiện pháp luật về cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú

Tóm tắt: Thời gian qua, nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, đặc biệt là các cơ sở nhỏ lẻ, chưa tuân thủ nghiêm các điều kiện về an ninh, trật tự; một số cơ sở hoạt động không phép hoặc cố tình lợi dụng “kẽ hở” của pháp luật để không thực hiện đúng các quy định pháp luật đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú. Từ thực tiễn này, bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn - thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn - thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn xét xử liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp không có thỏa thuận về chế độ tài sản. Trên cơ sở phân tích khung pháp lý, các nguyên tắc chia tài sản và một số bản án điển hình, nghiên cứu làm rõ những vướng mắc như xác định tài sản chung - riêng, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chia tài sản chung khi ly hôn theo hướng công bằng và hiệu quả hơn.
Hoàn thiện pháp luật về cơ sở thẩm mỹ phi y tế để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Hoàn thiện pháp luật về cơ sở thẩm mỹ phi y tế để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật hiện hành về điều kiện và phạm vi hoạt động của cơ sở dịch vụ thẩm mỹ; nhận diện một số hạn chế, bất cập từ quy định pháp luật, cũng như thực tiễn áp dụng; từ đó, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý các cơ sở dịch vụ thẩm mỹ, góp phần bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi họ sử dụng dịch vụ được cung cấp bởi các cơ sở dịch vụ thẩm mỹ.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tuyển dụng người khuyết tật ở Việt Nam

Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tuyển dụng người khuyết tật ở Việt Nam

Bài viết nghiên cứu chính sách, pháp luật về tuyển dụng người khuyết tật, đồng thời, phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến tuyển dụng người khuyết tật, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tuyển dụng người khuyết tật.
Pháp luật về bảo vệ quyền riêng tư dữ liệu của khách hàng cá nhân tại ngân hàng thương mại

Pháp luật về bảo vệ quyền riêng tư dữ liệu của khách hàng cá nhân tại ngân hàng thương mại

Sự phát triển của công nghệ số làm gia tăng đáng kể những nguy cơ về bảo mật dữ liệu khách hàng. Thực tiễn, đã có nhiều trường hợp xâm phạm dữ liệu khách hàng gây hậu quả nghiêm trọng. Việc bảo vệ dữ liệu của khách hàng không chỉ là yêu cầu pháp lý mà còn là yếu tố quyết định sự tin tưởng của khách hàng đối với ngân hàng thương mại. Bài viết phân tích cơ sở pháp lý và thực tiễn bảo vệ quyền riêng tư dữ liệu của khách hàng cá nhân, từ đó, đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm bảo vệ quyền này trong lĩnh vực ngân hàng.
Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024

Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024

Bài viết phân tích, đánh giá một số điểm mới của Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024 so với Luật Giao thông đường bộ năm 2008, từ đó, đưa ra một số dự báo về những tác động của Luật này đối với đời sống xã hội và kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ năm 2024 trong thời gian tới.
Hoàn thiện quy định pháp luật trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ tài chính ở Việt Nam

Hoàn thiện quy định pháp luật trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ tài chính ở Việt Nam

Pháp luật điều chỉnh lĩnh vực ứng dụng công nghệ vào các sản phẩm tài chính, ngân hàng là vấn đề mới ở Việt Nam. Vì thế, trong những năm qua, Việt Nam đã có chủ trương, yêu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực này nhằm thiết lập khung pháp lý đầy đủ, hiệu quả, phù hợp với xu thế chung của quốc tế và bối cảnh của Việt Nam trong giai đoạn mới. Bài viết nghiên cứu một số vấn đề chung về ứng dụng công nghệ tài chính; cách tiếp cận phổ biến trên thế giới và giải pháp hoàn thiện pháp luật về ứng dụng công nghệ tài chính tại Việt Nam.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tuyển dụng người khuyết tật ở Việt Nam

Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tuyển dụng người khuyết tật ở Việt Nam

Người khuyết tật đã tham gia vào nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội. Tuyển dụng người khuyết tật đóng góp tích cực trong thúc đẩy thực hiện quyền làm việc của người khuyết tật. Bài viết nghiên cứu chính sách, pháp luật về tuyển dụng người khuyết tật, đồng thời, phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến tuyển dụng người khuyết tật, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tuyển dụng người khuyết tật.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024

Bài viết tập trung phân tích những điểm mới quan trọng của Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024, đồng thời, nhận diện một số khó khăn, vướng mắc có thể phát sinh khi triển khai thi hành Luật; từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 trong thời gian tới.

Theo dõi chúng tôi trên: