Thứ tư 31/12/2025 10:43
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện chính sách, pháp luật thu hút chuyên gia pháp luật Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Bài viết phân tích sự cần thiết phải thu hút và trọng dụng chuyên gia, trí thức, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia pháp luật Việt Nam ở nước ngoài, nhằm tạo đột phá trong xây dựng và phát triển đất nước. Trên cơ sở phân tích, đánh giá một số quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện cho thấy chính sách thu hút chuyên gia pháp luật ở nước ngoài của Việt Nam chưa hiệu quả, chưa khai thác được tiềm năng khoa học, trí thức của kiều bào. Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp mang tính đột phá, gồm hoàn thiện cơ chế pháp lý, thiết lập tiêu chí, tiêu chuẩn lựa chọn, ban hành chính sách đãi ngộ phù hợp để thu hút và phát huy tối đa vai trò của lực lượng này phục vụ xây dựng, phát triển đất nước.

Từ khóa: người Việt Nam ở nước ngoài; chuyên gia pháp luật; đổi mới sáng tạo; xây dựng và thi hành pháp luật.

Abstract: The article analyzes the need to attract and utilize experts and intellectuals, especially Vietnamese legal experts abroad, in order to create a breakthrough in building and developing the country. Based on the analysis and evaluation of a number of legal regulations and implementation practices, it is shown that Vietnam's current policy to attract legal experts abroad is not effective and has not exploited the scientific and intellectual potential of overseas Vietnamese. From there, the study proposes a number of breakthrough solutions, including completing the legal mechanism, establishing selection criteria and standards, and issuing appropriate incentive policies to attract and maximize the role of this force in serving the construction and development of the country.

Keywords: Vietnamese people abroad; legal experts; creative innovation; law making and implementation.

Đặt vấn đề

Trí thức Việt Nam ở nước ngoài là lực lượng quan trọng không tách rời với dân tộc và đất nước. Theo ước tính của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, số lượng người có trình độ đại học trở lên chiếm khoảng hơn 10% trong tổng số 06 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, tương đương khoảng 600.000 người, gồm hai bộ phận là trí thức từ trong nước ra nước ngoài học tập, làm việc và trí thức là con em thế hệ thứ hai, thứ ba, thứ tư của người Việt ở nước ngoài, đang sinh sống tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó, trên 80% là ở các nước phát triển[1].

Trong lĩnh vực pháp luật, đa số chuyên gia pháp lý người Việt Nam ở nước ngoài, được đào tạo bài bản tại các trường luật danh tiếng trên thế giới, có kiến thức chuyên sâu về pháp luật quốc tế, kinh nghiệm làm việc trong môi trường đa văn hóa và khả năng ngoại ngữ vượt trội[2], đóng vai trò là cầu nối quan trọng trong chuyển giao tri thức pháp lý hiện đại, góp phần thiết thực vào tiến trình cải cách, hoàn thiện thể chế ở Việt Nam. Đội ngũ này có thể đóng góp trực tiếp vào quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp quốc tế và thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý. Bên cạnh đó, lực lượng này còn giữ vai trò kết nối, chuyển giao tri thức giữa các cơ quan, tổ chức pháp luật trong nước với các đối tác quốc tế, giúp Việt Nam tiếp cận hiệu quả hơn với kiến thức, kinh nghiệm và thông lệ pháp lý tiên tiến trên thế giới. Tuy nhiên, hiện, các cơ chế, chính sách của Việt Nam chưa khai thác hiệu quả tiềm năng trí thức của kiều bào. Do đó, cần xây dựng cơ chế, chính sách đột phá, xác định tiêu chí lựa chọn để khuyến khích, trọng dụng những cá nhân xuất sắc nhằm thu hút đội ngũ này phục vụ xây dựng, phát triển đất nước.

1. Chủ trương, chính sách, pháp luật Việt Nam về thu hút chuyên gia pháp luật người Việt ở nước ngoài tham gia giảng dạy, tư vấn và nghiên cứu pháp luật

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu, rộng, Việt Nam ngày càng ký kết, tham gia nhiều vào điều ước và tổ chức quốc tế, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động thương mại, đầu tư xuyên biên giới đã và đang đặt ra nhiều vấn đề pháp lý, tư pháp quốc tế phức tạp và đa dạng. Để giải quyết hiệu quả các vấn đề đặt ra, cần huy động và phát huy tối đa các nguồn lực trong nước, đồng thời, tranh thủ sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế. Bên cạnh đó, việc xây dựng hệ thống pháp luật vững mạnh, minh bạch, tận dụng hiệu quả, linh hoạt các lợi thế từ cam kết của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên[3] được xem là công cụ chiến lược nhằm định hình quyền lực mềm, qua đó, nâng cao hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Do đó, việc thu hút nguồn nhân lực chiến lược, đặc biệt là các chuyên gia pháp luật người Việt ở nước ngoài cần được coi là định hướng dài hạn của Việt Nam.

Chính vì vậy, thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật để thu hút, trọng dụng, đãi ngộ người Việt ở nước ngoài tham gia đóng góp cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết về công tác đối với người Việt ở nước ngoài, về công tác ngoại giao xây dựng đội ngũ trí thức, phát triển kinh tế…, trong đó có nội dung về phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, coi đây là các nhiệm vụ, giải pháp đột phá để phát triển đất nước; xây dựng, thi hành pháp luật cũng như phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số[4]. Đặc biệt, để hiện thực hóa nhiệm vụ trọng tâm trên cũng như mục tiêu chung về hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới, Bộ Chính trị đã thông qua hai nghị quyết quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược trong quá trình vươn mình của dân tộc[5]. Các nhiệm vụ, giải pháp tại hai nghị quyết này đều gắn chặt với nội dung phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, coi đây là các nhiệm vụ, giải pháp đột phá để thực hiện bước chuyển mình quan trọng của đất nước trong lĩnh vực xây dựng và thi hành pháp luật[6] cũng như khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số[7].

Thứ hai, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật để thu hút trọng dụng, đãi ngộ người Việt Nam ở nước ngoài tham gia đóng góp cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước như: Nghị quyết của Quốc hội[8]; Luật Quốc tịch và các văn bản quy phạm pháp luật khác[9]; các đề án[10]…

2. Thực trạng công tác thu hút chuyên gia pháp luật người Việt ở nước ngoài tham gia giảng dạy, tư vấn và nghiên cứu pháp luật tại Việt Nam

2.1. Một số kết quả đạt được

Thứ nhất, nhiều chuyên gia pháp lý người Việt ở nước ngoài đã đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật tại Việt Nam thông qua hoạt động tư vấn độc lập, phản biện chính sách và hỗ trợ kỹ thuật. Ví dụ: thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật giữa các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và đối tác nước ngoài, các chuyên gia đã chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ kỹ thuật trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, như Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Căn cước…[11], từ đó, nâng cao chất lượng lập pháp. Trong quá trình sửa đổi Luật Đất đai năm 2024, hội nghị lấy ý kiến trực tiếp và trực tuyến (do Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức) với sự tham gia của cộng đồng kiều bào tại 20 điểm cầu trên toàn cầu đã góp phần tháo gỡ nhiều vướng mắc về quyền sở hữu nhà ở gắn liền với đất của người gốc Việt và phản ánh các khó khăn liên quan đến thủ tục căn cước[12].

Thứ hai, nhiều chuyên gia pháp lý gốc Việt đã tham gia vào quá trình chuyển giao tri thức, xây dựng giáo trình và phương pháp đào tạo hiện đại, góp phần chuẩn hóa chương trình đào tạo luật theo hướng hội nhập quốc tế[13]. Ví dụ: một số cơ sở giáo dục ở phía Bắc như Trường Đại học Luật Hà Nội; Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội… đã và đang tổ chức các hoạt động khoa học nhằm thu hút sự tham gia của chuyên gia pháp luật người Việt Nam ở nước ngoài[14].

Ngoài ra, trong bối cảnh các tranh chấp đầu tư quốc tế liên quan đến Việt Nam ngày càng gia tăng, các chuyên gia pháp lý gốc Việt có kinh nghiệm quốc tế còn đảm nhận vai trò đại diện hoặc cố vấn pháp lý cho Nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong nước, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên cơ sở pháp luật quốc tế[15].

2.2. Một số khó khăn, bất cập

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai các cơ chế, chính sách thu hút và trọng dụng trí thức kiều bào của Việt Nam còn nhiều bất cập; chưa tạo được bước đột phá về số lượng và chất lượng; chính sách vĩ mô chưa được thực thi hiệu quả trên thực tế; số chuyên gia, nhà khoa học người Việt ở nước ngoài được hưởng lợi từ các chính sách ưu đãi trong nước chưa nhiều[16]. Nhìn chung, công tác huy động nguồn lực người Việt ở nước ngoài thời gian qua chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của người Việt Nam ở nước ngoài[17]. Có nhiều lý do dẫn đến thực trạng trên, trong đó có một số nguyên nhân sau:

Thứ nhất, khung khổ pháp lý riêng điều chỉnh và thúc đẩy việc thu hút chuyên gia pháp luật là người Việt Nam ở nước ngoài chưa được hình thành đồng bộ, thống nhất mà được quy định trong nhiều văn bản gây khó khăn cho việc áp dụng. Hoạt động tiếp nhận và hợp tác với đội ngũ chuyên gia pháp luật là người Việt Nam ở nước ngoài chủ yếu lồng ghép trong các chính sách chung dành cho trí thức kiều bào hoặc chuyên gia quốc tế. Các chính sách này chủ yếu tập trung vào lĩnh vực giáo dục, khoa học - công nghệ, trong khi thiếu những quy định riêng đáp ứng đặc thù của lĩnh vực pháp lý như tiêu chuẩn hành nghề, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, công nhận bằng cấp, hay yêu cầu về kỹ năng chuyên môn phù hợp với hệ thống pháp luật trong nước[18]. Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành chưa định nghĩa rõ về “chuyên gia pháp luật” dẫn đến khó khăn trong việc xác định đối tượng, thiết kế cơ chế tiếp nhận và triển khai hợp tác. Nhiều cơ quan buộc phải áp dụng các khái niệm chung như “chuyên gia nước ngoài” hoặc “chuyên gia mời theo dự án”, làm giảm tính chính danh và hạn chế tính bền vững của hợp tác lâu dài với chuyên gia pháp luật người Việt Nam ở nước ngoài[19].

Thứ hai, việc công nhận bằng cấp nước ngoài; thực hiện các thủ tục liên quan đến cư trú, xuất nhập cảnh, lao động và các quy định về chính sách thuế, bảo hiểm xã hội còn một số khó khăn nhất định. Quy định về công nhận văn bằng nước ngoài trong lĩnh vực luật học, hiện chưa có hướng dẫn riêng cho đối tượng người Việt Nam ở nước ngoài. Một số ngành như y tế, công nghệ, kỹ thuật đã áp dụng cơ chế linh hoạt, thí điểm công nhận song bằng, chuyển đổi nhanh, trong khi đó, lĩnh vực pháp lý vẫn duy trì điều kiện nghiêm ngặt, chưa phù hợp với đặc thù đào tạo và hành nghề tại các nước phát triển. Thực trạng này đã hạn chế cơ hội tham gia của chuyên gia pháp luật người Việt Nam ở nước ngoài vào xây dựng, hoàn thiện thể chế và thi hành pháp luật trong nước[20]. Đồng thời, nhiều quy định pháp luật trong lĩnh vực cư trú, xuất nhập cảnh, lao động, thuế và an sinh xã hội chưa thống nhất, chưa có quy định đặc thù cho đối tượng là chuyên gia pháp luật người Việt Nam ở nước ngoài. Trên thực tế, một số chuyên gia pháp luật người Việt Nam ở nước ngoài có quốc tịch nước ngoài gặp khó khăn trong việc được cấp thị thực dài hạn hoặc giấy phép lao động tại các cơ quan, đơn vị công lập dẫn đến không đủ điều kiện để ký kết hợp đồng lao động có thời hạn dài hoặc được bổ nhiệm vào các chức danh, vị trí pháp lý chính thức[21]. Trong lĩnh vực thuế, do Việt Nam chưa ký hiệp định tránh đánh thuế hai lần với nhiều quốc gia nên một số chuyên gia pháp luật là người Việt ở nước ngoài phải nộp thuế ở cả Việt Nam và nước cư trú, dẫn đến gánh nặng thuế kép và giảm động lực hợp tác[22]. Hệ thống bảo hiểm xã hội và y tế chưa có cơ chế riêng cho chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài làm việc ngắn hạn, bán thời gian hoặc theo dự án, làm cho họ không được hưởng đầy đủ chế độ an sinh và hợp tác thường mang tính thời vụ, thiếu ổn định[23].

Thứ ba, Việt Nam chưa hình thành cơ quan đầu mối và hệ thống cơ sở dữ liệu về chuyên gia là người Việt ở nước ngoài. Việc kết nối đội ngũ chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài chủ yếu do nhu cầu và đang phân tán giữa nhiều bộ, ngành như Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Giáo dục và Đào tạo nhưng chưa có cơ quan đầu mối chính thức để điều phối, phân bổ nguồn lực và đánh giá hiệu quả[24].

Đồng thời, Việt Nam chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu quốc gia đầy đủ, cập nhật thường xuyên về đội ngũ này; thông tin chủ yếu dựa trên thống kê từ các cơ quan ngoại giao, thiếu nền tảng số phục vụ việc tra cứu, sàng lọc và mời gọi theo chuyên môn, địa bàn hoặc nhu cầu cụ thể. Hệ thống dữ liệu không chỉ cho phép cập nhật hồ sơ cá nhân và chia sẻ thông tin về nhu cầu trong nước, mà còn có thể đóng vai trò diễn đàn gắn kết tri thức người Việt Nam ở trong và ngoài nước. Trong bối cảnh đội ngũ trí thức kiều bào đông nhưng phân tán, việc xây dựng cơ sở dữ liệu toàn diện sẽ tạo nền tảng quan trọng để huy động hiệu quả nguồn lực, đặc biệt, trong các lĩnh vực công nghệ cao và giải quyết tranh chấp quốc tế. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương còn thiếu tính đồng bộ. Nhiều địa phương chưa xác định rõ nhu cầu cụ thể, đồng thời, còn hạn chế về thông tin đối với đội ngũ chuyên gia và doanh nhân kiều bào, dẫn đến việc chưa chủ động kết nối và khai thác hiệu quả nguồn lực này.

Do đó, dù nhiều chuyên gia sẵn sàng hợp tác nhưng thiếu thông tin hoặc đầu mối kết nối, trong khi các bộ, ngành, địa phương phải khởi động từ đầu mỗi khi cần mời chuyên gia, dẫn đến lãng phí nguồn lực và giảm hiệu quả hợp tác[25].

Thứ tư, việc thực hiện các cơ chế, chính sách và quy định nhằm thu hút chuyên gia, trí thức kiều bào trên thực tế chưa đạt hiệu quả. Các chính sách còn thiên về “trọng đãi” hơn là “trọng dụng”, trong đó, nhiều ưu đãi không phù hợp hoặc thiếu tính khả thi.

Để chủ trương này đi vào thực tiễn, cần làm rõ một số vấn đề trọng tâm như: xác định đối tượng tuyển chọn, chuyên ngành ưu tiên, sản phẩm đầu ra kỳ vọng, mô hình quản lý cũng như năng lực của cơ quan trực tiếp sử dụng chuyên gia. Bên cạnh đó, hiện chưa có cơ chế thống nhất giữa các cơ quan trung ương và địa phương trong việc tiếp nhận, xử lý và phản hồi ý kiến, khuyến nghị của đội ngũ chuyên gia. Thực tiễn cho thấy, đã có nhiều trường hợp chuyên gia kiều bào gặp khó khăn khi chia sẻ sáng kiến hoặc đề xuất chính sách với các bộ, ngành, địa phương, qua đó cho thấy, sự cần thiết phải xây dựng một cơ chế chung, thống nhất và đồng bộ.

3. Một số kiến nghị, giải pháp

Thứ nhất, thống nhất nhận thức về chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước về củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó có cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Chính sách cần chú trọng đáp ứng các nguyện vọng chính đáng của kiều bào; đồng thời, có cơ chế động viên, khen thưởng và vinh danh những cá nhân có đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế quốc gia. Bên cạnh đó, việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài phải được thiết kế phù hợp với điều kiện thực tiễn từng giai đoạn phát triển đất nước.

Thứ hai, tiếp tục triển khai có hiệu quả các nghị quyết của Đảng[26] về chủ trương, chính sách liên quan đến công tác người Việt Nam ở nước ngoài.

Thứ ba, hoàn thiện cơ chế, bảo đảm thực thi hiệu quả các chính sách, pháp luật về thu hút chuyên gia pháp luật là người Việt Nam ở nước ngoài. Việt Nam cần xây dựng cơ chế thống nhất, đầy đủ và toàn diện để khắc phục tình trạng hiện nay, tạo điều kiện thuận lợi cho chuyên gia pháp luật là người gốc Việt tham gia giảng dạy, tư vấn và nghiên cứu tại Việt Nam.

Thư tư, ban hành một chiến lược chuyên biệt nhằm thu hút luật sư, chuyên gia và giảng viên luật là người Việt Nam ở nước ngoài, gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW và chiến lược phát triển nhân lực ngành luật. Chiến lược này cần nhấn mạnh cả hai hình thức đóng góp: trực tiếp tại Việt Nam và gián tiếp từ xa; đồng thời, tiếp tục sửa đổi pháp luật để tháo gỡ các rào cản cho kiều bào, như sửa đổi Luật Quốc tịch năm 2008 theo hướng giảm bớt điều kiện cho người có nguyện vọng nhập hoặc trở lại quốc tịch Việt Nam.

Thứ năm, ban hành văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt trong ngành tư pháp để hướng dẫn việc mời gọi, tuyển dụng và hợp tác với chuyên gia pháp luật là người Việt Nam ở nước ngoài. Văn bản này phải quy định rõ tiêu chí tuyển chọn, quy trình thực hiện, chế độ đãi ngộ, bao gồm thị thực, thuế, tiền lương, nhà ở, miễn giấy phép lao động ngắn hạn…, đồng thời, xác định quyền và nghĩa vụ của chuyên gia cũng như trách nhiệm của cơ quan tiếp nhận. Bên cạnh đó, cần thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành, trong đó, Bộ Tư pháp giữ vai trò đầu mối, kết nối Bộ Ngoại giao, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các cơ quan liên quan; đồng thời, duy trì kênh thông tin để tiếp nhận và xử lý kiến nghị, đề xuất của đội ngũ chuyên gia kiều bào. Việc xây dựng hành lang pháp lý minh bạch và cơ chế phối hợp thống nhất góp phần nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực pháp luật, đồng thời, khắc phục tình trạng “e ngại” thủ tục hoặc “khoảng trống” pháp lý.

Thứ sáu, hoàn thiện hình thức thu hút hợp tác. Cần xây dựng cơ chế kiêm nhiệm linh hoạt để chuyên gia pháp luật người Việt Nam ở nước ngoài có thể đóng góp mà không nhất thiết phải làm việc dài hạn tại Việt Nam. Cụ thể:

- Triển khai mô hình giảng viên thỉnh giảng không cư trú, mời chuyên gia luật kiều bào giảng dạy ngắn hạn hoặc trực tuyến tại các trường đại học, học viện đào tạo luật. Cách tiếp cận này bổ sung nguồn giảng viên chất lượng cao có kinh nghiệm quốc tế mà không yêu cầu kiều bào từ bỏ công việc ở nước ngoài.

- Phát huy vai trò phản biện và góp ý chính sách thông qua việc thực hiện hiệu quả Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 về phản biện xã hội. Theo đó, có thể mời luật gia, luật sư kiều bào tham gia góp ý các dự thảo luật, chính sách quan trọng với tư cách chuyên gia độc lập hoặc thành lập nhóm cố vấn pháp lý kiều bào trực thuộc Ban soạn thảo.

- Áp dụng cơ chế cố vấn theo dự án, bố trí chuyên gia kiều bào tham gia ngắn hạn trong các đề án cải cách tư pháp, hiện đại hóa Tòa án, tương trợ tư pháp quốc tế. Mô hình này vận hành theo cơ chế “đặt hàng” chuyên môn gắn với mục tiêu từng dự án, kết hợp hình thức làm việc trực tiếp và trực tuyến để bảo đảm tính linh hoạt.

Để các cơ chế trên đi vào thực tiễn, cần xây dựng hạ tầng làm việc từ xa, quỹ thù lao tương xứng, cơ chế ghi nhận và vinh danh đóng góp, cùng thái độ trân trọng và tin tưởng đối với đội ngũ chuyên gia là người Việt ở nước ngoài.

Thứ bảy, xây dựng cơ sở dữ liệu và mạng lưới chuyên gia pháp luật người Việt Nam ở nước ngoài.

- Xây dựng cơ sở dữ liệu số mở về chuyên gia pháp luật người Việt Nam ở nước ngoài do Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao và Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài quản lý. Cơ sở dữ liệu cần được cập nhật thường xuyên về chuyên môn, kinh nghiệm và vị trí công tác của chuyên gia; đồng thời, công khai có chọn lọc cho các cơ sở đào tạo luật, viện nghiên cứu, hội nghề nghiệp trong nước và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Cách tiếp cận này bảo đảm kết nối hai chiều: các cơ quan trong nước chủ động tìm kiếm, mời hợp tác; trong khi chuyên gia kiều bào nắm bắt kịp thời nhu cầu và cơ hội đóng góp. Đây là nền tảng quan trọng để triển khai các chương trình kết nối chuyên sâu.

- Tổ chức Diễn đàn Pháp lý Việt Nam toàn cầu định kỳ (hằng năm hoặc hai năm một lần) tại Việt Nam hoặc tại các trung tâm tập trung nhiều chuyên gia luật là người Việt ở nước ngoài. Diễn đàn là kênh đối thoại chính sách, chia sẻ chuyên môn và đề xuất giải pháp cải cách pháp luật giữa trí thức pháp lý kiều bào và các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trong nước. Cơ chế này tạo “bệ phóng” để sáng kiến cải cách pháp luật, đổi mới tư pháp và đào tạo luật tiếp cận trực tiếp các cơ quan hoạch định chính sách, qua đó, nâng cao hiệu quả đóng góp của đội ngũ chuyên gia pháp luật người Việt Nam ở nước ngoài.

Kết luận

Việc thu hút và trọng dụng người tài, chuyên gia là yêu cầu cấp thiết nhằm tạo đột phá trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Thực hiện chủ trương của Đảng, thời gian qua, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành, sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc thu hút chuyên gia, nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào các hoạt động giảng dạy, tư vấn và nghiên cứu pháp luật tại Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình triển khai các cơ chế, chính sách còn tồn tại một số hạn chế nhất định, chưa khai thác hiệu quả tiềm năng trí thức của cộng đồng kiều bào. Để phát huy vai trò của lực lượng này, cần có cơ chế đột phá để thu hút, đồng thời, xác định rõ tiêu chí lựa chọn, xây dựng tiêu chuẩn, quy định sàng lọc để lựa chọn được những cá nhân xuất sắc nhất. Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách cần gắn với định hướng của Đảng được thể hiện trong Chỉ thị số 45-NQ/TW ngày 19/5/2015 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới./.

NCS. ThS. Đào Quý Lộc

Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tư pháp

[1]. Số liệu ước tính của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao (Bích Diệp (2025), Thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài cho phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1046902/thu-hut-tri-thuc-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai--cho-phat-trien-nguon-nhan-luc-khoa-hoc--cong-nghe.aspx, truy cập ngày 10/5/2025.

[2]. Hoàng Quý, Thảo Nguyên (2025), Thu hút chuyên gia pháp lý là người Việt Nam ở nước ngoài về cống hiến: Cần có những chính sách đặc thù đủ hấp dẫn, https://baophapluat.vn/thu-hut-chuyen-gia-phap-ly-la-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai-ve-cong-hien-can-co-nhung-chinh-sach-dac-thu-du-hap-dan.html, ngày truy cập 17/7/2025.

[3]. Mục III.4 Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

[4]. Có thể kể đến các nghị quyết sau: Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài (Nghị quyết số 36/NQ-TW); Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06/8/2008); Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 19/5/2015 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới (Chỉ thị số 45-CT/TW); Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XII, XIII của Đảng; Kết luận số 12-KL/TW ngày 12/8/2021 của Bộ Chính trị về công tác của người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới (Kết luận số 12-KL/TW); Nghị quyết số 169/NQ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, Chỉ thị số 45-CT/TW và Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài giai đoạn 2021 - 2026; Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 10/8/2022 của Ban Bí thư về công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030 và Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 20/3/2023 của Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn 2022 - 2026 thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 10/8/2022 của Ban Bí thư về công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030; Mục III.4 Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

[5]. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết số 57-NQ/TW) và Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới (Nghị quyết số 66-NQ/TW).

[6]. Mục III. 4 Nghị quyết số 66-NQ/TW yêu cầu cần mở rộng hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp; xây dựng, phát triển mạng lưới chuyên gia pháp lý nước ngoài, gồm cả người Việt Nam ở nước ngoài để hỗ trợ nghiên cứu, tư vấn các vấn đề mới trong phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đồng thời, cần phải thực hiện chính sách đặc thù, vượt trội, áp dụng chế độ thù lao, thuê khoán tương xứng để thu hút, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham gia các nhiệm vụ, hoạt động xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật. Thu hút, tiếp nhận chuyên gia, nhà khoa học pháp lý, luật gia, luật sư giỏi vào khu vực công.

[7]. Mục III.4 Nghị quyết số 57/NQ-TW đề cập tới các nhiệm vụ, giải pháp về phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

[8]. Ngày 17/5/2025, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 197/2025/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Nghị quyết này tập trung vào các cơ chế, chính sách đặc biệt để tạo đột phá trong công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, trong đó có các quy định về chế độ, chính sách đối với người tham gia công tác xây dựng pháp luật, gồm cả việc hỗ trợ tài chính và miễn thuế thu nhập. Mặc dù, không trực tiếp quy định về việc thu hút chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài nhưng thông qua việc cải thiện môi trường làm việc và đãi ngộ, Nghị quyết số 197/2025/QH15 gián tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài quay trở về nước làm việc trong lĩnh vực xây dựng pháp luật.

[9]. Luật Quốc tịch năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2025 (Luật Quốc tịch năm 2008), Nghị định số 87/2014/NĐ-CP ngày 22/9/2014 của Chính phủ về thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam; Nghị định số 92/2025/NĐ-CP ngày 25/4/2025 của Chính phủ quy định về chế độ, chính sách đối với chuyên gia cao cấp và Luật Thủ đô năm 2024. Việc ban hành các quy định này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho những cá nhân xuất sắc gồm cả người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia quốc tế, có thể tham gia đóng góp vào sự phát triển của đất nước.

[10]. Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 31/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Mục tiêu chung của Chiến lược là xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chính sách, giải pháp mạnh, đột phá để thu hút và trọng dụng nhân tài (trong và ngoài nước) đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050, đặc biệt, trong các ngành, lĩnh vực mũi nhọn như: khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; văn hóa; khoa học xã hội; y tế; thông tin và truyền thông, chuyển đổi số...; Quyết định số 1334/QĐ-TTg ngày 10/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới”. Đề án đưa ra một số giải pháp cụ thể, như: rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chính sách, pháp luật tạo điều kiện cho người Việt Nam ở nước ngoài yên tâm quay trở về đất nước đầu tư, kinh doanh; xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ từ trung ương đến địa phương về triển khai thu hút, phát huy nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài; thu hút chuyên gia, trí thức, nhân tài người Việt Nam ở nước ngoài và lao động người Việt trở về nước; có các chính sách, biện pháp cụ thể phát huy nguồn lực “mềm” của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 19/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo đến năm 2030”.

[11]. OECD (2023), Rule of Law and Anti-Corruption in Viet Nam: A Path to Justice, https://www.oecd.org/ countries/vietnam/rule-of-law-and-anti-corruption-in-viet-nam.pdf, truy cập ngày 04/7/2025.

[12]. Báo Chính phủ (2023), Kiều bào đóng góp ý kiến đối với dự thảo Luật Đất đai sửa đổi, https://baochinhphu.vn/kieu-bao-dong-gop-y-kien-doi-voi-du-thao-luat-dat-dai-sua-doi-102230302201010305.htm, truy cập ngày 04/7/2025.

[13]. Trần Thị Thu Hằng (2021), Đào tạo luật theo chuẩn quốc tế: Cơ hội và thách thức tại Việt Nam, Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số 6, tr. 55 - 60.

[14]. GS. Nguyễn Xuân Thảo, Giám đốc Trung tâm Luật châu Á, Đại học Washington, Hoa Kỳ là một trong những chuyên gia pháp luật đã có khá nhiều hoạt động giảng dạy, tư vấn, nghiên cứu tại Việt Nam thời gian qua.

[15]. Nguyễn Hữu Tuấn (2023), Tranh chấp đầu tư quốc tế và vai trò của chuyên gia Việt kiều, Tạp chí Pháp lý, số 3, tr. 40 - 45.

[16]. Ninh Cơ (2023), Phát huy nguồn lực trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, https://nhandan.vn/phat-huy-nguon-luc-tri-thuc-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai-post763912.html, truy cập ngày 10/6/2025.

[17]. Ngô Hướng Nam và Cộng sự (2023), Phát huy hiệu quả nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/866502/phat-huy-hieu-qua-nguon-luc-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai-nham-thuc-hien-cac-muc-tieu-phat-trien-dat-nuoc-den-nam-2030-theo-nghi-quyet-dai-hoi-xiii-cua-dang.aspx#, truy cập ngày 04/7/2025.

[18]. Trần Văn Hạnh (2022), Khung pháp lý và cơ hội hợp tác với chuyên gia Việt kiều trong lĩnh vực tư pháp, Tạp chí Luật học, số 10, tr. 21 - 27.

[19]. Lê Xuân Rao (2023), Thu hút, trọng dụng, phát huy vai trò của trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, https://tuyenquang.dcs.vn/DetailView/144542/6/Thu-hut-trong-dung-phat-huy-vai-tro-cua-tri-thuc-nguoi-Viet-Nam-o-nuoc-ngoai.html, truy cập ngày 04/7/2025.

[20]. Trần Huỳnh (2024), Nhiều vướng mắc trong công nhận văn bằng chương trình liên kết đào tạonước ngoài, https://tuoitre.vn/nhieu-vuong-mac-trong-cong-nhan-van-bang-chuong-trinh-lien-ket-dao-tao-nuoc-ngoai-20241007102440231.htm, truy cập ngày 04/7/2025.

[21]. Nguyễn Thị Lan (2022), Chính sách visa và giấy phép lao động cho chuyên gia Việt kiều: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Nhân lực và Pháp luật, số 7, tr. 40 - 45.

[22]. Nguyễn Thu Hà (2023), Chính sách thuế và đãi ngộ đối với chuyên gia nước ngoài: Khuyến nghị cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 4, tr. 34 - 39.

[23]. Nguyễn Thị Lan (2022), tlđd, tr. 46 - 51.

[24]. Lê Thọ Bình (2024), Cần tháo gỡ “điểm nghẽn” trong trọng dụng nhân tài, https://m.viettimes.vn/can-thao-go-diem-nghen-trong-trong-dung-nhan-tai-post179713.amp.

[25]. Nguyễn Văn Bình (2023), Kinh nghiệm lập pháp quốc tế và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1, tr. 3 - 9.

[26]. Nghị quyết số 36-NQ/TW, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06/8/2008, Chỉ thị số 45-CT/TW, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Kết luận số 12-KL/TW, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 66-NQ/TW.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo Chính phủ (2023), Kiều bào đóng góp ý kiến đối với dự thảo Luật Đất đai sửa đổi, https://baochinhphu.vn/kieu-bao-dong-gop-y-kien-doi-voi-du-thao-luat-dat-dai-sua-doi-102230302201010305. htm, truy cập ngày 04/7/2025.

2. Bích Diệp (2025), Thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài cho phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/1046902/thu-hut-tri-thuc-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai-cho-phat-trien-nguon-nhan-luc-khoa-hoc—cong-nghe.aspx, truy cập ngày 10/5/2025.

3. Hoàng Quý, Thảo Nguyên (2025), Thu hút chuyên gia pháp lý là người Việt Nam ở nước ngoài về cống hiến: Cần có những chính sách đặc thù đủ hấp dẫn, https://baophapluat.vn/thu-hut-chuyen-gia-phap-ly-la-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai-ve-cong-hien-can-co-nhung-chinh-sach-dac-thu-du-hap-dan.html, truy cập ngày 17/7/2025.

4. Lê Thọ Bình (2024), Cần tháo gỡ “điểm nghẽn” trong trọng dụng nhân tài, https://m.viettimes.vn/can-thao-go-diem-nghen-trong-trong-dung-nhan-tai-post179713.amp, truy cập ngày 17/7/2025.

5. Lê Xuân Rao (2023), Thu hút, trọng dụng, phát huy vai trò của trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, https://tuyenquang.dcs.vn/DetailView/144542/6/Thu-hut-trong-dung-phat-huy-vai-tro-cua-tri-thuc-nguoi-Viet-Nam-o-nuoc-ngoai.html, truy cập ngày 17/7/2025.

6. Ngô Hướng Nam và Cộng sự (2023), Phát huy hiệu quả nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/866502/phat-huy-hieu-qua-nguon-luc-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai-nham-thuc-hien-cac-muc-tieu-phat-trien-dat-nuoc-den-nam-2030-theo-nghi-quyet-dai-hoi-xiii-cua-dang.aspx, truy cập ngày 17/7/2025.

7. Nguyễn Hữu Tuấn (2023), Tranh chấp đầu tư quốc tế và vai trò của chuyên gia Việt kiều, Tạp chí Pháp lý, số 3.

8. Nguyễn Thị Lan (2022), Chính sách visa và giấy phép lao động cho chuyên gia Việt kiều: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Nhân lực và Pháp luật, số 7.

9. Nguyễn Thu Hà (2023), Chính sách thuế và đãi ngộ đối với chuyên gia nước ngoài: Khuyến nghị cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 4.

10. Nguyễn Văn Bình (2023), Kinh nghiệm lập pháp quốc tế và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1.

11. Ninh Cơ (2023), Phát huy nguồn lực trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, https://nhandan.vn/phat-huy-nguon-luc-tri-thuc-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai-post763912. html, ngày 25/7/2023, truy cập ngày 10/6/2025.

12. OECD (2023), Rule of Law and AntiCorruption in Viet Nam: A Path to Justice, https://www.oecd.org/countries/vietnam/rule-of-law-and-anti-corruption-in-viet-nam.pdf, truy cập ngày 17/7/2025.

13. Trần Huỳnh (2024), Nhiều vướng mắc trong công nhận văn bằng chương trình liên kết đào tạo nước ngoài, https://tuoitre.vn/nhieu-vuong-mac-trong-cong-nhan-van-bang-chuong-trinh-lien-ket-dao-tao-nuoc-ngoai-20241007102440231.htm, truy cập ngày 17/7/2025.

14. Trần Thị Thu Hằng (2021), Đào tạo luật theo chuẩn quốc tế: Cơ hội và thách thức tại Việt Nam, Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số 6.

15. Trần Văn Hạnh (2022), Khung pháp lý và cơ hội hợp tác với chuyên gia Việt kiều trong lĩnh vực tư pháp, Tạp chí Luật học, số 10.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số Kỳ 2 (437) tháng 9/2025))

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử theo quy định của pháp luật Việt Nam - Vướng mắc và định hướng hoàn thiện *

Bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử theo quy định của pháp luật Việt Nam - Vướng mắc và định hướng hoàn thiện *

Tóm tắt: Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, các rủi ro về xâm phạm dữ liệu cá nhân của các chủ thể, đặc biệt khi tham gia vào hoạt động thương mại điện tử, cũng ngày càng gia tăng. Do vậy, bảo vệ dữ liệu cá nhân đang trở thành vấn đề cấp thiết trong kỷ nguyên số. Bài viết phân tích quy định của pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện tử, trọng tâm là Nghị định số 13/2023/NĐ-CP ngày 17/4/2023 của Chính phủ quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân và Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025, chỉ ra những tồn tại và đề xuất định hướng hoàn thiện pháp luật với mục tiêu bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển thương mại điện tử và bảo vệ dữ liệu cá nhân của các chủ thể trong môi trường số.
Tăng cường vai trò của Chính phủ trong hoạt động lập pháp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới nhìn từ kinh nghiệm của Trung Quốc

Tăng cường vai trò của Chính phủ trong hoạt động lập pháp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới nhìn từ kinh nghiệm của Trung Quốc

Tóm tắt: Quốc vụ viện đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng hệ thống pháp luật nhằm tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội ở Trung Quốc. Qua phân tích kinh nghiệm tham gia định hình hệ thống pháp luật phục vụ cho phát triển của Quốc vụ viện, bài viết rút ra những bài học có giá trị áp dụng cho Việt Nam để tăng cường vai trò của Chính phủ trong hoạt động lập pháp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện dự thảo Báo cáo tổng rà soát thủ tục hành chính ở 03 cấp chính quyền

Hoàn thiện dự thảo Báo cáo tổng rà soát thủ tục hành chính ở 03 cấp chính quyền

Chiều ngày 15/12/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh chủ trì cuộc họp Tổ Công tác liên ngành, Tổ Giúp việc rà soát, đánh giá thủ tục hành chính về dự thảo Báo cáo tổng rà soát thủ tục hành chính 03 cấp chính quyền. Tham dự cuộc họp có đồng chí Nguyễn Thanh Tịnh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp; đồng chí Ngô Hải Phan, Cục trưởng Cục chuyển đổi số - Cơ yếu, Văn phòng Trung ương Đảng; các thành viên của Tổ Giúp việc là đại diện của các cơ quan có liên quan; đại diện Tập đoàn VNPT, Mobifone, FPT và một số đơn vị thuộc Bộ Tư pháp.
Bộ Tư pháp công bố các dữ liệu hộ tịch thay thế giấy tờ trong giải quyết thủ tục hành chính

Bộ Tư pháp công bố các dữ liệu hộ tịch thay thế giấy tờ trong giải quyết thủ tục hành chính

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh vừa ký ban hành Quyết định số 3458/QĐ-BTP về việc công bố dữ liệu hộ tịch và hướng dẫn kết nối, khai thác sử dụng dữ liệu hộ tịch thay thế giấy tờ trong giải quyết thủ tục hành chính.
Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV đã hoàn thành toàn bộ nội dung, chương trình đề ra

Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV đã hoàn thành toàn bộ nội dung, chương trình đề ra

Đây là phát biểu của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tại phiên bế mạc kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV diễn ra chiều ngày 11/12/2025.
Hoàn thiện chính sách về phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng đặc thù, yếu thế để không ai bị bỏ lại phía sau

Hoàn thiện chính sách về phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng đặc thù, yếu thế để không ai bị bỏ lại phía sau

Đây là một trong 07 chính sách được đề xuất tại buổi làm việc của Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Ngọc với Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý ngày 10/12/2025 về dự thảo chính sách Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật (sửa đổi).
Quốc hội thông qua Luật An ninh mạng

Quốc hội thông qua Luật An ninh mạng

Sáng 10/12, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương, Quốc hội thông qua Luật An ninh mạng với đa số đại biểu tán thành (chiếm tỉ lệ 91,75%). Theo đó, Luật có nhiều điểm mới, đã bổ sung quy định về hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm mạng, các biện pháp bảo vệ an ninh mạng; bổ sung quy định bảo vệ nhóm yếu thế trên không gian mạng, trẻ em, người cao tuổi và người gặp khó khăn về nhận thức.
Nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính, thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp

Nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính, thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp

Ngày 05/12/2025, Bộ Tư pháp tổ chức Hội đồng thẩm định dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý do Thứ trưởng Bộ Tư pháp Phan Chí Hiếu chủ trì. Tham dự phiên họp có các thành viên của Hội đồng thẩm định là đại diện của các cơ quan: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Dân tộc và Tôn giáo, Bộ Tài chính, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… và đại diện một số cơ quan thuộc Bộ Tư pháp.
Hoàn thiện, thống nhất khung pháp lý về an ninh mạng

Hoàn thiện, thống nhất khung pháp lý về an ninh mạng

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công an đã xây dựng hồ sơ đề nghị xây dựng Luật An ninh mạng theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Dự thảo Luật gồm 09 chương với 58 điều, đang được thảo luận tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV; đã có 70 lượt đại biểu phát biểu ý kiến tại tổ (ngày 31/10/2025), 15 lượt đại biểu phát biểu tại hội trường (ngày 06/11/2025) và 05 Đoàn đại biểu Quốc hội gửi ý kiến bằng văn bản.
Đề xuất chuyển đổi số toàn diện trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch

Đề xuất chuyển đổi số toàn diện trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch

Ngày 02/12/2025, Bộ Tư pháp tổ chức Hội đồng thẩm định Hồ sơ chính sách Luật Hộ tịch (sửa đổi) do Thứ trưởng Bộ Tư pháp Phan Chí Hiếu chủ trì. Tham dự phiên họp có các thành viên của Hội đồng thẩm định là đại diện của các cơ quan: Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao; Bộ Nội vụ; Bộ Tài chính; Bộ Khoa học và Công nghệ; Sở Tư pháp thành phố Hà Nội; Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh; Ủy ban nhân dân phường Giảng Võ… và đại diện một số cơ quan thuộc Bộ Tư pháp.
Mở ra những cơ hội hợp tác quốc tế mới trong xây dựng và thi hành pháp luật

Mở ra những cơ hội hợp tác quốc tế mới trong xây dựng và thi hành pháp luật

Ngày 29/11/2025, trong khuôn khổ dự án Tăng cường pháp luật và tư pháp tại Việt Nam do EU tài trợ giai đoạn 2 (EUJULE 2), Bộ Tư pháp phối hợp với Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh tổ chức Diễn đàn pháp luật năm 2025 với chủ đề "Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới". Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh chủ trì Diễn đàn. Đồng chủ trì Diễn đàn, về phía Việt Nam có: Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, Đồng Trưởng Ban Chỉ đạo dự án EU JULE 2; Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh Bùi Văn Khắng; về phía EU có ông Gonzalo Serrano de la Rosa, Trưởng Ban Hợp tác, Đại diện Phái đoàn EU tại Việt Nam; về phía UNDP, có bà Ramla Khalidi, Trưởng Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam.
Bàn về trách nhiệm pháp lý trong khám, chữa bệnh từ xa và y tế số ở Việt Nam

Bàn về trách nhiệm pháp lý trong khám, chữa bệnh từ xa và y tế số ở Việt Nam

Tóm tắt: Bối cảnh chuyển đổi số ngành y tế đặt ra yêu cầu cần phân định rõ trách nhiệm giữa bác sĩ, cơ sở y tế, nhà cung cấp nền tảng và nhà phát triển phần mềm. Để thực hiện điều này, bài viết phân tích, làm rõ các dạng trách nhiệm pháp lý phát sinh trong quá trình khám, chữa bệnh từ xa và ứng dụng công nghệ số, những khoảng trống pháp lý đáng chú ý, đặc biệt, về tiêu chuẩn kỹ thuật, nghĩa vụ minh bạch và cơ chế bảo vệ người bệnh. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất định hướng xây dựng khung pháp lý phù hợp, nhằm kiểm soát rủi ro mà vẫn thúc đẩy đổi mới trong lĩnh vực y tế ở Việt Nam.
Cần thiết ban hành Luật An ninh mạng đáp ứng yêu cầu phát triển mới về công nghệ số

Cần thiết ban hành Luật An ninh mạng đáp ứng yêu cầu phát triển mới về công nghệ số

Nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia, phát triển kinh tế số, chuyển đổi số quốc gia, khắc phục sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa Luật An toàn thông tin mạng năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) và Luật An ninh mạng năm 2018, dự án Luật An ninh mạng đã được xây dựng trên cơ sở hợp nhất 02 luật nêu trên và đang được Quốc hội khóa XV xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 10.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật - Cơ hội, thách thức và một số giải pháp

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật - Cơ hội, thách thức và một số giải pháp

Tóm tắt: Bài viết phân tích cơ hội và thách thức đặt ra cho hoạt động đào tạo luật trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo tạo sinh đang phát triển nhanh và tác động mạnh mẽ đến giáo dục pháp luật. Từ việc nhận diện các yêu cầu đổi mới theo định hướng của Đảng và Nhà nước, nghiên cứu đánh giá tiềm năng ứng dụng của trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật; đồng thời, chỉ ra những rủi ro liên quan như gian lận học thuật, sai lệch thông tin, định kiến thuật toán và các vấn đề đạo đức, pháp lý. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp hoàn thiện khi tích hợp trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật tại Việt Nam.
Sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật Tiếp cận thông tin nhằm bảo đảm phù hợp yêu cầu thực tiễn trong tình hình mới

Sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật Tiếp cận thông tin nhằm bảo đảm phù hợp yêu cầu thực tiễn trong tình hình mới

Chiều ngày 27/11/2025, Bộ Tư pháp tổ chức Hội đồng thẩm định hồ sơ chính sách Luật Tiếp cận thông tin (sửa đổi) do Thứ trưởng Bộ Tư pháp Phan Chí Hiếu chủ trì. Tham dự phiên họp có các thành viên của Hội đồng thẩm định là đại diện của các cơ quan: Văn phòng Chính phủ; Bộ Tài chính; Bộ Quốc phòng; Bộ Nội vụ; Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Xây dựng; Bộ Công an; Bộ Ngoại giao… và đại diện một số cơ quan thuộc Bộ Tư pháp.

Theo dõi chúng tôi trên: