Từ khóa: Hồ Chí Minh; tư tưởng Hồ Chí Minh; Nhà nước pháp quyền; cán bộ tư pháp; công tác xây dựng cán bộ tư pháp; cải cách tư pháp; thượng tôn pháp luật; hội nhập quốc tế.
Abstract: In the context of building a socialist rule-of-law state in Vietnam and promoting judicial reform, the need to develop a strong staff of judicial officials with adequate qualities and capacity is becoming urgent. Given the strong impacts of the international integration process and digital transformation in the judicial field, the study and application of Ho Chi Minh's thought on personnel work is of great significance, contributing to determining the theoretical and practical basis for training and fostering a team of judicial officials who are "both red and professional". The study proposes solutions to improve political capacity, moral qualities, professional capacity, vocational skills and the ability to apply modern technology. The results show that building a team of judicial officials who meet the requirements of the new period is a key factor in ensuring the effectiveness of judicial reform and strengthening people's trust in justice.
Keywords: Ho Chi Minh; Ho Chi Minh's thought; rule-of-law state; judicial officials; judicial staff building work; judicial reform; rule of law; international integration.
Đặt vấn đề
Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh là yêu cầu cấp thiết trong tiến trình cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong thời kỳ mới, khi khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng cùng với yêu cầu thượng tôn pháp luật, nhiệm vụ này càng trở nên quan trọng, gắn chặt với hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và niềm tin của Nhân dân vào công lý. Việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào bối cảnh hiện nay sẽ góp phần hình thành đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp toàn diện, hiện đại và hướng tới phục vụ Nhân dân.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
Trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đội ngũ cán bộ tư pháp giữ vai trò then chốt trong việc bảo đảm sự thượng tôn pháp luật, thực thi công lý và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước và Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Cách mạng Việt Nam, Người không chỉ đặt nền móng cho tư tưởng Nhà nước pháp quyền, mà còn đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp về mọi mặt. Tư tưởng của Người về phẩm chất, năng lực và phương pháp xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn. Những khía cạnh cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ tư pháp gồm:
Thứ nhất, về vai trò, tầm quan trọng của cán bộ tư pháp trong bộ máy nhà nước.
Trong hệ thống Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cán bộ tư pháp đóng vai trò trụ cột trong việc bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ công lý và duy trì trật tự xã hội. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ quan tư pháp là “cơ quan trọng yếu của chính quyền”[1] và những người cán bộ tư pháp là “người cầm cán cân công lý”. Hình ảnh chiếc cân đòi hỏi “sự thăng bằng tuyệt đối, không nghiêng về bất kỳ phía nào ngoài lẽ phải và sự thật” đã thể hiện yêu cầu khách quan, vô tư và công bằng trong thực thi pháp luật. Đây không chỉ là biểu tượng pháp lý, mà còn là biểu hiện sinh động của tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò tối cao của công lý trong đời sống xã hội.
Theo Người, sự công tâm là yếu tố cốt lõi bảo đảm cho hoạt động tư pháp đạt được mục tiêu phục vụ công lý và lợi ích của Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, cán bộ tư pháp phải “tuyệt đối không được thiên vị, không để tình cảm cá nhân, quyền lực hay vật chất chi phối phán quyết của mình”. Đó không chỉ là yêu cầu về phẩm chất đạo đức, mà còn là nguyên tắc xuyên suốt định hướng hành động trong công tác tư pháp. Người khẳng định: “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”[2] - tuyên ngôn thể hiện rõ tinh thần thượng tôn pháp luật, chống đặc quyền, đặc lợi trong xét xử.
Từ tư tưởng trên, có thể khẳng định, cán bộ tư pháp là lực lượng đảm nhận vai trò trung tâm trong việc bảo đảm sự vận hành đúng đắn của nền tư pháp - nơi quyền lực được thực thi không vì mục đích cục bộ, mà nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của toàn xã hội. Họ là những người đại diện cho bộ mặt của công lý, là cầu nối giữa pháp luật và đời sống thực tiễn. Không chỉ thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, đội ngũ cán bộ tư pháp còn góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân vào tính nghiêm minh và công bằng của pháp luật - yếu tố thiết yếu để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Do đó, việc quan tâm xây dựng và hoàn thiện đội ngũ cán bộ tư pháp là yêu cầu khách quan, cấp thiết. Đội ngũ này cần được xác định là mắt xích quan trọng trong chiến lược phát triển hệ thống chính trị và cải cách tư pháp toàn diện. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, chuyên nghiệp, tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”[3]. Chỉ khi đội ngũ cán bộ tư pháp thực sự là “công bộc của dân”, hành xử đúng pháp luật và dựa trên “những chứng cứ khách quan, xác thực”, thì nền tư pháp mới có thể vận hành hiệu quả, đúng định hướng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng từ những ngày đầu thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Thứ hai, yêu cầu về phẩm chất đạo đức của cán bộ tư pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ tư pháp là người thực thi công lý, bảo vệ pháp luật và quyền lợi chính đáng của Nhân dân, do đó, phải có phẩm chất đạo đức mẫu mực, đó là phẩm chất trong sáng, liêm khiết, công bằng và tận tụy phục vụ Nhân dân. Trong đó, liêm chính là nền tảng đạo đức vững chắc, giúp họ không bị lung lay trước những cám dỗ vật chất hay áp lực quyền lực. Một cán bộ tư pháp liêm khiết sẽ luôn đặt lợi ích của Nhân dân và sự tôn nghiêm của pháp luật lên trên hết, không để bản thân bị chi phối bởi những động cơ cá nhân hay lợi ích nhóm. Người luôn nhắc nhở cán bộ tư pháp rằng: “cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư””[4]. Do đó, trong thư gửi Hội nghị công tác tư pháp tháng 2 năm 1948, Người viết: “cán bộ tư pháp phải tuyệt đối trung thành”[5], “các bạn là những người phụ trách thi hành luật pháp, lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao tấm gương “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” cho Nhân dân noi theo”[6]. Điều này thể hiện những phẩm chất cốt lõi mà Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu ở cán bộ tư pháp. Trước hết, Người nhấn mạnh sự tuyệt đối trung thành - đòi hỏi mang tính nguyên tắc đối với những người thực thi pháp luật. Sự trung thành này không chỉ là trung thành với Đảng, với Tổ quốc mà còn là trung thành với lẽ phải, với công lý. Đồng thời, Người cũng khẳng định vai trò phụ trách thi hành luật pháp của cán bộ tư pháp - trọng trách lớn lao liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của Nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là những phẩm chất đạo đức cốt lõi của người cán bộ cách mạng, đặc biệt là với cán bộ tư pháp. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “cần” là chăm chỉ, tận tụy với công việc; “kiệm” là tiết kiệm thời gian, sức lực, của cải cho dân, cho nước; “liêm” là trong sạch, không tham lam, không nhận hối lộ; “chính” là thẳng thắn, trung thực, không thiên vị; “chí công vô tư” là đặt lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân lên trên hết, không vì tư lợi cá nhân mà làm sai lệch công lý. Người nhấn mạnh, cán bộ tư pháp phải là tấm gương sáng về đạo đức, công tâm trong công việc, bởi nếu cán bộ tư pháp không giữ được mình thì công lý sẽ bị bóp méo, lòng dân sẽ mất. Những phẩm chất này không chỉ giúp cán bộ tư pháp hoàn thành tốt nhiệm vụ mà còn góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh và vì dân.
Thứ ba, yêu cầu về năng lực chuyên môn và bản lĩnh chính trị.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ tư pháp không chỉ cần có đạo đức cách mạng, mà còn phải có năng lực chuyên môn vững vàng mới có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao một cách đúng đắn, hiệu quả. Bởi lẽ, tư pháp là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của Nhân dân, đến sự công bằng và kỷ cương của xã hội. Vì vậy, cán bộ tư pháp cần hiểu biết sâu sắc về pháp luật, thành thạo về nghiệp vụ, đồng thời, biết vận dụng lý luận vào thực tiễn một cách linh hoạt và chính xác. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ thì cán bộ phải có năng lực. Không có năng lực thì dù có chí khí, cũng không làm nên việc. Người không chấp nhận kiểu cán bộ “tốt về đạo đức nhưng yếu kém về chuyên môn”, vì sẽ dẫn đến hành xử lúng túng, giải quyết vụ việc thiếu hiệu quả, thậm chí gây thiệt hại cho Nhân dân và xã hội.
Đặc biệt, đối với cán bộ tư pháp - những người “cầm cán cân công lý” thì năng lực còn là điều kiện để bảo đảm yêu cầu khách quan và công tâm trong xét xử. Cán bộ phải hiểu đúng luật, phân tích được chứng cứ, đánh giá tình tiết một cách khoa học và chặt chẽ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: cán bộ phải học tập chính trị, học tập chuyên môn, học tập kinh nghiệm trong công tác, thể hiện rõ quan điểm của Người về việc không ngừng rèn luyện, nâng cao trình độ. Đồng thời, theo Người, người cán bộ giỏi là người “vừa hồng, vừa chuyên”, nghĩa là vừa có đạo đức tốt, vừa có trình độ chuyên môn cao. Hai yếu tố này bổ sung, hỗ trợ cho nhau để tạo nên một cán bộ tư pháp vững vàng, công tâm, đủ năng lực thực hiện đúng pháp luật, bảo vệ công lý, phục vụ Nhân dân.
Bên cạnh năng lực chuyên môn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng bản lĩnh chính trị của cán bộ tư pháp. Người chỉ rõ, cán bộ tư pháp không đơn thuần là những người áp dụng pháp luật một cách máy móc mà còn phải là những chiến sĩ trên mặt trận pháp lý, kiên định với mục tiêu lý tưởng của Đảng và Nhà nước, trung thành với Tổ quốc và Nhân dân. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ tư pháp toàn miền Bắc năm 1958, Người đã nhấn mạnh: cán bộ tư pháp phải có lập trường chính trị vững vàng, phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, với Nhà nước dân chủ Nhân dân. Phải nhận rõ đúng sai, phải kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện tiêu cực, trái pháp luật. Bản lĩnh chính trị vững vàng là nền tảng để cán bộ tư pháp giữ vững nguyên tắc, không bị lung lay trước những cám dỗ vật chất hay áp lực từ bên ngoài.
Thứ tư, yêu cầu cán bộ tư pháp phải “phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, tư cách đạo đức của cán bộ nói chung, cán bộ tư pháp nói riêng được đo bằng sự tin yêu, quý mến của người dân. Với cán bộ tư pháp, phải lấy công việc phụng sự Nhân dân làm lẽ sống, làm mục tiêu phấn đấu, đặt lợi ích của Nhân dân, của dân tộc lên trên hết, phải tuân thủ pháp luật, giữ gìn và bảo vệ pháp luật. Đặc biệt, cán bộ tư pháp là những người Nhân dân Nhà nước, thay mặt Nhân dân cầm cân nảy mực, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì yêu cầu phụng sự Nhân dân càng đòi hỏi cao hơn. “Phục vụ dân, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhân dân”, “việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”[7] là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của công tác tư pháp. Sự tận tâm, trách nhiệm và tinh thần phục vụ Nhân dân phải trở thành phương châm hành động của mỗi cán bộ tư pháp. Điều này đã được Người khẳng định: “nếu cán bộ tư pháp nâng cao năng suất, làm việc mau chóng, thì sẽ giúp cho những đồng bào có việc đến tư pháp tiết kiệm được ngày giờ, để tăng gia sản xuất”[8].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng nền tư pháp không thể tách rời mục tiêu phục vụ con người, phục vụ xã hội. Người từng nhấn mạnh, suy cho đến cùng, “vấn đề tư pháp là ở đời và làm người”. Đây là tư tưởng mang tính nhân văn sâu sắc, thể hiện quan điểm coi tư pháp không chỉ là công cụ pháp lý thuần túy mà còn là biểu hiện của đạo lý và lẽ phải trong đời sống xã hội. Theo Người, tư pháp là quyền lực của Nhân dân, do Nhân dân mà ra và vì Nhân dân mà tồn tại. Do đó, hoạt động tư pháp phải gắn chặt với cuộc sống thường nhật, phản ánh được phong tục, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời, phù hợp với điều kiện sống và yêu cầu tiến bộ của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyến cáo, không nên quan trọng hóa tư pháp đến mức xa rời thực tiễn, nhưng cũng tuyệt đối không được xem nhẹ hay tầm thường hóa nó. Bên cạnh yêu cầu về tính pháp lý, cán bộ tư pháp còn cần có cái tâm trong sáng, bởi tư pháp là để phục vụ con người, vì con người. Người dạy: “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”[9], nghĩa là điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác, đây là nguyên tắc ứng xử cốt lõi của người làm tư pháp, phải biết đặt mình vào vị trí của Nhân dân, thấu hiểu và hành xử với tinh thần nhân đạo, công tâm, như chính cách mình mong được đối xử trong cuộc sống. Đây là tư tưởng nền tảng để xây dựng đội ngũ tư pháp không chỉ giỏi về chuyên môn, mà còn sâu sắc về đạo lý và gần gũi với Nhân dân.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp là hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc. Người đặc biệt nhấn mạnh sự trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ Nhân dân, tinh thần “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, cùng với trình độ nghiệp vụ vững vàng và tinh thần học hỏi không ngừng. Những chỉ dẫn của Người về việc cán bộ tư pháp phải là “công bộc” của dân, “người cầm cán cân công lý” với sự công tâm tuyệt đối, vẫn giữ nguyên giá trị thời sự sâu sắc, định hướng cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh.
2. Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong bối cảnh đổi mới hiện nay
Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của khoa học - công nghệ và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đã và đang có nhiều chuyển biến tích cực. Có thể khẳng định, đây là một trong những lĩnh vực nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước, bởi cán bộ tư pháp giữ vai trò trung tâm trong bảo đảm công lý, bảo vệ pháp luật và duy trì niềm tin của Nhân dân đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ tư pháp đã không ngừng được củng cố, phát triển cả về số lượng và chất lượng, bước đầu đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đổi mới.
Về mặt thuận lợi, trước hết, phải kể đến việc hệ thống tiêu chuẩn, tiêu chí tuyển chọn và quy hoạch cán bộ tư pháp ngày càng được chuẩn hóa, qua đó, góp phần nâng cao chất lượng đầu vào. Năng lực chuyên môn, trình độ pháp lý và kỹ năng nghề nghiệp của nhiều cán bộ được cải thiện đáng kể, thể hiện qua khả năng tiếp cận nhanh chóng với các quy định pháp luật mới, đồng thời, vận dụng linh hoạt vào xử lý những vấn đề phát sinh từ thực tiễn. Cán bộ đã chứng tỏ được bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần trách nhiệm và ý thức phụng sự Nhân dân, qua đó, tạo dựng hình ảnh “công bộc của dân” đúng nghĩa. Chính từ sự tận tâm, nỗ lực này, niềm tin của Nhân dân và xã hội đối với nền tư pháp được củng cố, góp phần khẳng định vai trò của hệ thống tư pháp trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Một thuận lợi quan trọng khác là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua nhiều nghị quyết, chỉ thị và chương trình hành động cụ thể nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, gắn với yêu cầu của cải cách tư pháp toàn diện. Cùng với đó, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và quá trình hội nhập quốc tế đã mở ra những cơ hội mới để cán bộ tư pháp học hỏi, tiếp cận các chuẩn mực, kinh nghiệm tiên tiến, cũng như áp dụng các công cụ công nghệ vào hoạt động nghề nghiệp. Đây là nền tảng quan trọng để đội ngũ cán bộ tư pháp nâng cao năng lực toàn diện, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu quản lý và thực thi pháp luật trong bối cảnh mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, hiện còn tồn tại không ít khó khăn, hạn chế. Trước hết, một bộ phận cán bộ tư pháp còn yếu kém về năng lực thực tiễn, nặng về tư duy kinh nghiệm, chậm thích ứng với yêu cầu đổi mới. Nhiều cán bộ thiếu kỹ năng mềm như kỹ năng giao tiếp, thuyết phục, giải quyết xung đột; khả năng ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế; trình độ ngoại ngữ nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Điều này dẫn đến sự lúng túng trong xử lý các vụ việc phức tạp, đặc biệt, những vụ việc liên quan đến yếu tố quốc tế hoặc đòi hỏi kỹ năng ứng dụng công nghệ cao. Ở một số địa phương, điều kiện vật chất, môi trường làm việc cho cán bộ tư pháp chưa được bảo đảm đầy đủ và đồng bộ. Cơ sở hạ tầng chưa hiện đại, thiếu trang thiết bị phục vụ công tác chuyên môn; trong khi áp lực công việc lớn, hồ sơ vụ án ngày càng phức tạp, dẫn đến nguy cơ quá tải, tạo áp lực tâm lý nặng nề cho cán bộ. Không ít trường hợp cán bộ do thiếu bản lĩnh hoặc vì lợi ích cá nhân đã có biểu hiện nhũng nhiễu, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, gây bức xúc trong dư luận xã hội và làm suy giảm uy tín của cơ quan tư pháp. Công tác tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ tư pháp chưa thưc sự đáp ứng yêu cầu đặt ra. Ở một số nơi, việc đào tạo còn mang tính hình thức, nội dung chưa bám sát yêu cầu thực tiễn, thiếu sự gắn kết giữa lý thuyết và kỹ năng thực hành. Hệ thống đánh giá hiệu quả đào tạo chưa đầy đủ, chưa tạo được cơ chế phản hồi liên tục để điều chỉnh và nâng cao chất lượng. Điều này làm cho quá trình đào tạo - bồi dưỡng chưa tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong năng lực và phong cách làm việc của một bộ phận cán bộ. Ngoài ra, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan tư pháp, cũng như giữa tư pháp với các ban, ngành liên quan còn một số bất cập. Tình trạng chồng chéo trong chức năng, nhiệm vụ, sự thiếu đồng bộ trong chia sẻ thông tin, dữ liệu, hay hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm trong xử lý vụ việc pháp lý còn xảy ra. Thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả không chỉ làm chậm tiến độ giải quyết công việc, mà còn ảnh hưởng đến chất lượng và tính minh bạch của hoạt động tư pháp.
Những khó khăn, hạn chế trên, trong bối cảnh đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế sâu rộng, đã và đang trở thành thách thức lớn, tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của bộ máy tư pháp và niềm tin của Nhân dân vào công lý. Vì vậy, việc nhận diện đầy đủ, đúng đắn thực trạng này không chỉ mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, mà còn là cơ sở cần thiết để đề xuất các định hướng, giải pháp phù hợp.
3. Định hướng, giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
Hiện, quá trình đổi mới tổ chức chính quyền địa phương theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, tăng cường phân cấp, phân quyền và trách nhiệm giải trình đang đặt ra những yêu cầu mới và cao hơn đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Họ cần có năng lực chuyên môn sâu rộng hơn, khả năng giải quyết các vấn đề pháp lý phức tạp hơn, đồng thời, phải bảo đảm tính minh bạch, công khai và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của mình. Yêu cầu về chất lượng dịch vụ công ngày càng cao, đòi hỏi cán bộ tư pháp phải nâng cao trình độ, cải thiện thái độ phục vụ, gần gũi và lắng nghe Nhân dân hơn. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong bối cảnh hiện nay, cần tập trung vào một số giải pháp quan trọng sau:
Một là, nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng và đạo đức nghề nghiệp.
Một trong những giải pháp trọng tâm để xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức chính quyền địa phương là tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng và rèn luyện đạo đức nghề nghiệp, gắn với đặc thù hoạt động tư pháp. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn làm cách mạng thành công thì “cán bộ phải vừa hồng, vừa chuyên”, nghĩa là vừa có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, tinh thần phụng sự Nhân dân, vừa có trình độ chuyên môn giỏi, thành thạo nghiệp vụ. Trong hoạt động tư pháp, “hồng” thể hiện ở sự liêm chính, công tâm, thái độ gần dân, trọng dân, còn “chuyên” thể hiện ở năng lực xét xử công minh, giải quyết thủ tục hành chính đúng pháp luật, nhanh gọn, không để người dân bị phiền hà.
Để cụ thể hóa yêu cầu “vừa hồng, vừa chuyên” trong công tác tư pháp, cần tổ chức việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thường xuyên, thực chất và gắn với từng nhiệm vụ cụ thể, như trong công tác xét xử, thi hành án, chứng thực, hộ tịch hay giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Việc học tập này không chỉ nhằm nâng cao nhận thức lý luận, mà quan trọng hơn là tạo chuyển biến thực chất trong hành vi và thái độ phục vụ của cán bộ, hướng đến hình ảnh “người công bộc liêm chính, tận tụy, gần dân”.
Đồng thời, cần tăng cường bồi dưỡng lý luận chính trị, giáo dục đạo đức công vụ, ý thức nêu gương và tinh thần “phụng sự công lý, phụng sự Nhân dân” cho đội ngũ cán bộ tư pháp, giúp họ vững vàng trước các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, lợi ích nhóm và áp lực hành chính. Bên cạnh đó, cần thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát, phản hồi và xử lý vi phạm đạo đức nghề nghiệp công khai, minh bạch, qua đó, xây dựng môi trường làm việc lành mạnh, đề cao trách nhiệm, tính liêm chính và sự tôn trọng pháp luật. Đây là điều kiện quan trọng để đội ngũ cán bộ tư pháp thực sự xứng đáng với vai trò “người gác cửa công lý”, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hai là, cần chú trọng công tác tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ tư pháp.
Cùng với tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng là giải pháp trọng tâm nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp “vừa hồng, vừa chuyên” theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên thực tế, nhiều cán bộ còn gặp khó khăn khi xử lý các tình huống pháp lý phức tạp, thiếu kỹ năng giao tiếp hoặc chưa thích ứng kịp với yêu cầu chuyển đổi số trong lĩnh vực tư pháp. Do đó, đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng là yêu cầu tất yếu, bảo đảm gắn lý luận với thực tiễn, kết hợp đào tạo chuyên sâu về pháp luật với rèn luyện kỹ năng thực hành, kỹ năng mềm và kỹ năng công nghệ số. Các phương pháp hiện đại như đào tạo trực tuyến, mô phỏng tình huống pháp lý, huấn luyện thực hành qua vụ việc điển hình không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, mở rộng phạm vi tiếp cận mà còn tăng tính tương tác, khả năng vận dụng thực tế. Tính khả thi của giải pháp này rất cao, bởi hiện nay, hầu hết các cơ sở đào tạo tư pháp đều đã có nền tảng công nghệ và đội ngũ giảng viên đủ năng lực để triển khai.
Bên cạnh đó, công tác đánh giá cán bộ cần được xem như một mắt xích không thể tách rời trong chu trình tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đánh giá, phản hồi. Cách tiếp cận này giúp bảo đảm quy trình khép kín, liên tục và có điều chỉnh kịp thời, tránh tình trạng đào tạo hình thức, thiếu thực tế. Việc đánh giá phải dựa trên hiệu quả công việc, phẩm chất đạo đức và sự hài lòng của người dân, mà không chỉ dừng lại ở bằng cấp hay thâm niên công tác. Đồng thời, chú trọng việc đánh giá cán bộ bảo đảm dân chủ, công khai, công tâm, khách quan, theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, có tiêu chí và thông qua sản phẩm cụ thể. Đây là giải pháp có tính khả thi cao vì hoàn toàn có thể áp dụng đồng bộ trong hệ thống chính quyền địa phương, kết hợp với ứng dụng công nghệ thông tin để bảo đảm tính minh bạch, công khai và giảm thiểu can thiệp chủ quan.
Như vậy, việc tăng cường tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và đánh giá cán bộ tư pháp không chỉ xuất phát từ yêu cầu nâng cao năng lực đội ngũ trong bối cảnh đổi mới, mà còn dựa trên luận cứ khoa học và thực tiễn rõ ràng. Giải pháp này khả thi, vì vừa phù hợp với điều kiện hiện nay của hệ thống tư pháp Việt Nam, vừa bám sát tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ có đức, có tài, đáp ứng yêu cầu phục vụ Nhân dân, giữ vững kỷ cương và công lý trong giai đoạn mới.
Ba là, xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, minh bạch và trách nhiệm cho cán bộ tư pháp.
Trước hết, cần tạo điều kiện làm việc thuận lợi về vật chất cho cán bộ tư pháp, như bố trí trụ sở riêng, có không gian tiếp dân phù hợp và trang bị đầy đủ phương tiện, thiết bị điện tử phục vụ cho việc số hóa hồ sơ, thực hiện cải cách hành chính và chuyển đổi số trong hoạt động tư pháp. Giải pháp này có tính khả thi cao vì phù hợp với chủ trương hiện đại hóa nền hành chính và chuyển đổi số quốc gia, đồng thời, góp phần giảm áp lực tâm lý, tạo điều kiện để cán bộ phát huy năng lực, làm việc chuyên nghiệp và phục vụ Nhân dân tốt hơn.
Bên cạnh điều kiện vật chất, yếu tố minh bạch và trách nhiệm trong môi trường làm việc cần được đặc biệt coi trọng. Việc ban hành và thực hiện nghiêm quy chế làm việc rõ ràng, phân định cụ thể trách nhiệm của từng vị trí, từng cá nhân trong quá trình xử lý hồ sơ, là cơ sở để bảo đảm nguyên tắc “mỗi cán bộ tư pháp phải chịu trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm giải trình” trong mọi quyết định hành chính, pháp lý. Thực tế cho thấy, nhiều hạn chế trong hoạt động tư pháp hiện nay bắt nguồn từ sự chồng chéo về trách nhiệm và thiếu cơ chế giám sát độc lập, do đó, cần thiết lập hệ thống giám sát nội bộ chặt chẽ gắn với cơ chế phản hồi của Nhân dân, như công khai tiến độ xử lý hồ sơ, thiết lập đường dây nóng, hòm thư góp ý hoặc khảo sát mức độ hài lòng của người dân. Những biện pháp này không chỉ tăng cường tính minh bạch mà còn giúp chính quyền lắng nghe và điều chỉnh kịp thời những bất cập từ thực tiễn.
Đồng thời, để trách nhiệm giải trình và kỷ luật công vụ được thực thi nghiêm minh, cần có quy định rõ ràng về quy trình xử lý kỷ luật, cơ chế giám sát, kiểm tra định kỳ và đánh giá hiệu quả công việc, đi đôi với ứng dụng công nghệ thông tin trong giám sát nội bộ, như phần mềm theo dõi tiến độ xử lý hồ sơ hoặc hệ thống đánh giá hiệu suất làm việc. Điều này vừa tạo động lực phấn đấu, vừa bảo đảm tính công bằng, minh bạch trong đánh giá cán bộ.
Giải pháp xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, minh bạch và có trách nhiệm không chỉ đáp ứng yêu cầu thực tiễn của quá trình cải cách tư pháp và đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, mà còn hoàn toàn khả thi trong điều kiện hiện nay. Đặc biệt, giải pháp này thể hiện sâu sắc tinh thần “công khai, minh bạch, vì dân phục vụ” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh trong xây dựng đội ngũ cán bộ nhà nước, góp phần hình thành đội ngũ cán bộ tư pháp vừa có năng lực chuyên môn vững vàng, vừa có đạo đức công vụ trong sáng và tinh thần phụng sự Nhân dân.
Bốn là, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tư pháp và các ban, ngành liên quan.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp tại địa phương, tăng cường cơ chế phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và thực chất giữa các cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, thi hành án) với các ban, ngành liên quan là yêu cầu cấp thiết. Trên thực tế, nhiều hạn chế trong hoạt động tư pháp hiện nay xuất phát từ tình trạng thiếu thông tin, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ hoặc đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan, dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết vụ việc và làm giảm niềm tin của người dân vào công lý. Vì vậy, xây dựng cơ chế phối hợp thống nhất, rõ trách nhiệm và có tính ràng buộc không chỉ bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức và hành động, mà còn hướng tới mục tiêu giải quyết các vụ việc pháp lý toàn diện, kịp thời, đúng pháp luật và phù hợp thực tiễn địa phương.
Trước hết, cần cụ thể hóa các hình thức phối hợp liên ngành nhằm bảo đảm tính khả thi và tránh hình thức: (i) xây dựng hệ thống quản lý thông tin chung và phần mềm chia sẻ dữ liệu điện tử giữa các cơ quan tư pháp, cho phép liên thông dữ liệu từ khâu điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án; (ii) thành lập các nhóm công tác liên ngành để phối hợp xử lý những vụ việc phức tạp, có nhiều bên liên quan, bảo đảm mọi tình tiết được xem xét khách quan, toàn diện; (iii) thực hiện chế độ trao đổi thông tin định kỳ và đột xuất, bảo đảm mọi diễn biến vụ việc được cập nhật đầy đủ, chính xác và kịp thời, qua đó, tránh tình trạng chồng chéo, bỏ sót hoặc kéo dài thời gian giải quyết. Đồng thời, cơ chế phối hợp cần mở rộng ra các cơ quan hành chính, tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở nhằm hỗ trợ việc nắm bắt tình hình an ninh, trật tự, thu thập chứng cứ, tuyên truyền pháp luật và thực hiện các biện pháp bảo đảm hoạt động tư pháp. Nhờ đó, hoạt động tư pháp sẽ không chỉ dừng ở phạm vi pháp lý thuần túy, mà còn gắn bó chặt chẽ với đời sống kinh tế - xã hội, chính trị của địa phương.
Đặc biệt, để cơ chế phối hợp vận hành hiệu quả, vai trò lãnh đạo và trách nhiệm của người đứng đầu cần được nhấn mạnh và quy định rõ ràng. Người đứng đầu các cơ quan tư pháp và ban, ngành liên quan phải chủ động chỉ đạo, kiểm tra, định kỳ báo cáo kết quả phối hợp, đồng thời, chịu trách nhiệm cá nhân nếu để xảy ra tình trạng thiếu phối hợp, đùn đẩy trách nhiệm hoặc xử lý chậm trễ. Cần thiết lập quy trình phối hợp thống nhất, có cơ chế giải quyết vướng mắc kịp thời và duy trì các cuộc họp định kỳ hoặc trao đổi đột xuất khi phát sinh vấn đề mới, bảo đảm thông tin được thông suốt, minh bạch và có phản hồi hai chiều.
Việc tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tư pháp và các ban, ngành liên quan là giải pháp có tính cấp thiết và khả thi cao, vì phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp, xây dựng chính quyền điện tử và chuyển đổi số quốc gia. Hơn nữa, giải pháp này góp phần hiện thực hóa tinh thần “phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, nhằm tạo nền tư pháp thống nhất, hiệu lực và gần dân hơn. Như vậy, việc tăng cường phối hợp liên ngành không chỉ giúp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, mà còn là biểu hiện sinh động của nguyên tắc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nơi mọi hoạt động công vụ đều hướng tới mục tiêu phụng sự Nhân dân và bảo vệ công lý.
Năm là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo trong hoạt động tư pháp.
Để hiện thực hóa mục tiêu tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước, đặc biệt, trong bối cảnh đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động tư pháp là yêu cầu tất yếu. Việc số hóa các quy trình quản lý và điều hành giúp giảm thiểu các khâu trung gian, tối ưu hóa luồng công việc, từ đó, tinh gọn bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. “Với sự phát triển như vũ bão và thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại, việc xây dựng Tòa án điện tử đã trở thành xu thế toàn cầu”[10], việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo vào giải quyết các vụ việc pháp lý, như quản lý hồ sơ điện tử, phiên tòa trực tuyến, giám định từ xa,... không chỉ tiết kiệm thời gian, chi phí và nhân lực, mà còn nâng cao tính chính xác và minh bạch của quá trình giải quyết công việc. Cùng với đầu tư hạ tầng, cần đặc biệt chú trọng đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng công nghệ thông tin, chuyển đổi số cho đội ngũ cán bộ tư pháp, giúp họ sử dụng thành thạo các hệ thống phần mềm, công cụ số và quy trình điện tử trong công việc. Việc triển khai công nghệ thông tin, chuyển đổi số phải được thiết kế phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng địa phương: ở các đô thị, có thể áp dụng toàn diện các dịch vụ số hóa, trong khi ở vùng nông thôn, miền núi cần triển khai từng bước, ưu tiên số hóa hồ sơ, xây dựng hệ thống quản lý dữ liệu cơ bản và nâng cao năng lực sử dụng công nghệ của cán bộ. Đồng thời, để tạo sự tin cậy cho cả cán bộ và người dân, cần đặc biệt coi trọng bảo mật thông tin và an toàn dữ liệu bằng cách áp dụng các tiêu chuẩn bảo mật quốc gia và quốc tế, thiết lập hệ thống sao lưu dữ liệu, kiểm soát truy cập nhiều tầng và thường xuyên đánh giá, cập nhật các biện pháp phòng ngừa rủi ro an ninh mạng.
Cùng với đó, việc phát triển các dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực tư pháp, như đăng ký trực tuyến, tra cứu thông tin pháp lý hay tư vấn pháp luật qua mạng, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận pháp luật, giảm bớt thủ tục hành chính rườm rà, qua đó, nâng cao hiệu quả phục vụ và củng cố niềm tin của Nhân dân. Có thể khẳng định, công nghệ thông tin, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo là công cụ mạnh mẽ để xây dựng nền tư pháp hiện đại, minh bạch, hiệu lực và hiệu quả, góp phần trực tiếp vào mục tiêu tinh gọn bộ máy nhà nước. Như vậy, chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực tư pháp không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là bước chuyển chiến lược để nâng cao hiệu lực quản lý, mở rộng quyền tiếp cận công lý của người dân và khẳng định vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời đại số. Giải pháp này hoàn toàn khả thi, vì vừa phù hợp với chủ trương của Đảng về xây dựng Chính phủ số, xã hội số, vừa đáp ứng nhu cầu thực tiễn về hiệu quả, minh bạch và liêm chính trong hoạt động tư pháp hiện nay.
Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ tư pháp là nền tảng lý luận có giá trị định hướng cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh ở Việt Nam. Trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc vận dụng tư tưởng “vừa hồng, vừa chuyên” đòi hỏi sự kết hợp hài hòa giữa nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện phẩm chất đạo đức, củng cố năng lực chuyên môn và nuôi dưỡng tinh thần phụng sự Nhân dân. Đồng thời, cần gắn với đổi mới công tác đào tạo, ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ và hoàn thiện cơ chế phối hợp liên ngành. Đây là những định hướng, giải pháp có ý nghĩa chiến lược, không chỉ khắc phục những hạn chế hiện nay mà còn tạo nền tảng để Đảng “tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”[11]./.
TS. Lê Thị Hiền
Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Ảnh: Internet
[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 473.
[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 127.
[3]. Nguyễn Hòa Bình, Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, https://tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tiep-tuc-xay-dung-nen-tu-phap-viet-nam-chuyen-nghiep-hien-dai-cong-bang-nghiem-minh-liem-chinh-phung-su-to-quoc-phuc-vu-nhan-dan, truy cập ngày 02/9/2025.
[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 127.
[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 472.
[6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 473.
[7]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 21.
[8]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 354.
[9]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 304.
[10]. Nguyễn Hòa Bình, tlđd.
[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 149.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
2. Xây dựng hệ thống pháp luật và nền tư pháp Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
4. Nguyễn Hòa Bình, Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, https://tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_ publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tiep-tuc-xay-dung-nen-tu-phap-viet-nam-chuyen-nghiep-hien-dai-cong-bang-nghiem-minh-liem-chinh-phung-su-to-quoc-phuc-vu-nhan-dan, truy cập ngày 19/5/2025.
5. Nguyễn Sinh Hùng (2016), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và thành tựu lập pháp trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số Kỳ 1 (440) tháng 11/2025)