Thứ sáu 20/06/2025 08:42
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự hiện nay

Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2014 đã khắc phục những điểm bất cập của Luật năm 2008 và sửa đổi, bổ sung một số quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự

Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2014 đã khắc phục những điểm bất cập của Luật năm 2008 và sửa đổi, bổ sung một số quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự... Những sửa đổi, bổ sung này cũng đánh dấu sự phát triển và hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự (THADS) và cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan THADS từ trung ương đến địa phương, về mối quan hệ với các cơ quan hữu quan nhằm tăng cường hiệu quả tổ chức và quản lý hoạt động THADS, góp phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, trong thực tiễn thi hành, vẫn tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn nhưng chưa được sửa đổi. Bên cạnh đó, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự năm 2014 chưa cụ thể hóa, nên cơ quan THADS và chấp hành viên gặp nhiều lúng túng, khó khăn trong công tác thi hành. Điều đó được thể hiện ở các vấn đề sau:

Thứ nhất, trong công tác xác minh điều kiện thi hành án

Luật Thi hành án dân sự quy định thời hạn xác minh trong thi hành án chủ động là 10 ngày, nhưng trong quá trình áp dụng quy định này có một số bất cập như sau:

(i) Theo Điều 45 Luật Thi hành án dân sự hiện hành, thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ. Chấp hành viên Chi cục THADS huyện Quan Sơn, Thanh Hóa quyết định thi hành án, nhưng nếu đương sự tự nguyện thi hành án, thì kết quả xác minh của chấp hành viên không có giá trị.

(ii) Trong trường hợp kết quả xác minh xác định người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án, mà theo quy định tại khoản 3 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự: “Thời hạn ra quyết định hoãn thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ hoãn thi hành án quy định tại khoản 1 điều này”. Như vậy, nếu ra quyết định hoãn thì không đúng quy định vì chưa hết thời gian tự nguyện thi hành án, nếu không ra quyết định hoãn thì không đúng khoản 3 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự.

Do vậy, việc đảm bảo thời hạn xác minh theo quy định hiện hành đang là vấn đề rất khó thực hiện trên thực tế.

Thứ hai, về việc thực hiện thông báo thi hành án

Đây là hoạt động của chấp hành viên, cán bộ và cơ quan THADS nhằm làm cho đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan biết được quyền và nghĩa vụ của mình phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định. Là hoạt động diễn ra thường xuyên, vì vậy, việc thông báo trong THADS có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm đảm bảo tính khách quan, minh bạch trong hoạt động thi hành án và là cơ sở để áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Đây là hình thức thông báo cuối cùng, có tính chất rộng rãi nhất, nhưng hiện nay, phần lớn các chấp hành viên và cơ quan THADS dễ hiểu sai, thực hiện sai các hình thức thông báo.

Điều 43 Luật Thi hành án dân sự quy định về điều kiện áp dụng hình thức thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng: (a) Chỉ khi pháp luật có quy định; hoặc (b) khi đương sự có yêu cầu. Tuy nhiên thực tế hiện nay, một số chấp hành viên và cơ quan THADS vẫn thực hiện trong trường hợp người được thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng về các quyết định, văn bản để người được thi hành án nắm được. Điều này là hoàn toàn trái với quy định của điều luật đã quy định ở trên và hoàn toàn có thể xảy ra khiếu nại của người phải thi hành án với lý do cơ quan thi hành án thông báo không đúng hình thức, gây ảnh hưởng đến uy tín của họ. Cũng cần lưu ý, khi thực hiện thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo yêu cầu của người được nhận thông báo, chấp hành viên cần lưu lại văn bản yêu cầu cũng như văn bản thể hiện kết quả thông báo để làm cơ sở. Sau khi đã xác định có đủ cơ sở để áp dụng thì khi đó thông báo mới được thực hiện trên phương tiện thông tin đại chúng và thủ tục thông báo sẽ được thực hiện theo khoản 2, 3 Điều 43 Luật Thi hành án dân sự.

Trong suốt quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định, việc thông báo về thi hành án diễn ra không chỉ duy nhất một lần mà có thể phải thực hiện thường xuyên, điều này ảnh hưởng lớn đến việc đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nắm được quyền, nghĩa vụ của mình hay không để thực hiện. Điều đó cũng quyết định đến hiệu quả của hoạt động thi hành án, đây cũng là một yếu tố đánh giá chất lượng hoạt động THADS. Vì vậy, việc nhận thức, áp dụng đúng, đủ các quy định của pháp luật về thông báo thi hành án là rất quan trọng và cần thiết. Chấp hành viên và cơ quan thi hành án không thể chủ quan để gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.

Thứ ba, về vấn đề miễn, giảm trong thi hành án dân sự

Điều 61 Luật Thi hành án dân sự quy định một trong những điều kiện để được miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước là người phải thi hành án phải thi hành được một phần nghĩa vụ. Quy định này rất khó thực hiện trong thực tiễn vì rất nhiều vụ việc đủ điều kiện về thời gian nhưng người phải thi hành án không có khả năng thi hành dù khoản tiền rất nhỏ, gia đình người phải thi hành án thuộc hộ nghèo ở địa phương hoặc người phải thi hành án là người nước ngoài, không rõ địa chỉ… Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng án tồn đọng kéo dài nhiều năm nhưng không có biện pháp giải quyết dứt điểm. Mặt khác, tại điểm a khoản 3 Điều 61 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Năm năm kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng” thì được xét miễn giảm, nhưng trên thực tế, một số vụ việc đã đủ điều kiện về thời gian nhưng giá trị còn lại trên 5 triệu đồng đến dưới 10 triệu đồng khi đề nghị giảm không được Tòa án, Viện kiểm sát chấp nhận do Luật Thi hành án dân sự không quy định, thậm chí có những trường hợp đã đề nghị và được xét giảm đến dưới 10 triệu đồng phải dừng lại không được xét giảm tiếp mà phải đợi đủ thời gian 10 năm để xét miễn.

Từ những vấn đề nêu trên, để công tác THADS đạt được hiệu quả cao hơn, điều kiện thực hiện nghiệp vụ của chấp hành viên được thuận lợi hơn, chúng tôi đề xuất một số giải pháp cơ bản sau đây:

Một là, cần phải quy định rõ về người được thi hành án tự xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Đây là quyền quan trọng của người được thi hành án, song thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp chấp hành viên phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác, tiến hành tổ chức xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án còn gặp khó khăn thì người được thi hành án nhiều khi không thể tự xác minh được. Vì vậy, không nên quy định người được thi hành án phải chứng minh là áp dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì có thể đề nghị chấp hành viên xác minh. Mà nên quy định: “Chấp hành viên tổ chức xác minh khi có yêu cầu của người được thi hành án”.

Hai là, cần thiết phải sửa đổi quy định người phải thi hành án “đã thi hành được ít nhất bằng 1/20 khoản phải thi hành, nhưng giá trị không được thấp hơn mức án phí không có giá ngạch” là điều kiện bắt buộc để xét miễn, giảm. Thực tế cho thấy, sẽ là rất khó khăn trong công tác xét miễn, giảm đối với những trường hợp thi hành các khoản thu nộp ngân sách nhà nước trên 5.000.000 đồng mà người phải thi hành án hoàn toàn không có điều kiện để nộp, số vụ việc trên chiếm rất lớn tại các cơ quan thi hành án dân sự. Do vậy, cần sửa đổi, bổ sung về điều kiện, trình tự thủ tục, phối hợp liên ngành trong việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với người phải thi hành án tránh rườm rà, bất cập như hiện nay.

Ba là, hoàn thiện hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự theo hướng đồng bộ, thống nhất với Luật, nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất đồng thời đó cũng là điều kiện thuận lợi để các chấp hành viên tổ chức thi hành án đạt hiệu quả cao.

Bốn là, cụ thể hóa các quy định của Luật về sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan và chính quyền địa phương trong công tác THADS. Thực tế cho thấy, hiệu quả của công tác thi hành án phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp của các cơ quan hữu quan và chính quyền cơ sở. Nhưng trong thực tiễn không phải lúc nào cũng nhận được sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động thi hành án như việc tống đạt các quyết định, văn bản, việc xác minh điều kiện thi hành án, cưỡng chế, định giá tài sản, việc xem xét trả lời những kiến nghị của cơ quan THADS.

Lê Hùng Cường

Chi cục THADS huyện Quan Sơn, Thanh Hóa

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm