Thứ sáu 06/06/2025 16:25
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số vấn đề cần trao đổi về cấu thành tội bắt cóc con tin trong Bộ luật Hình sự năm 2015

Bài viết nhằm làm rõ dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội bắt cóc con tin trong Bộ luật Hình sự năm 2015 trên cơ sở phân tích, tìm hiểu quy định của điều ước quốc tế có liên quan (Công ước 1979 về bắt cóc con tin) cũng như tìm hiểu kinh nghiệm pháp luật hình sự một số nước trên thế giới. Đặc biệt, bài viết có phân biệt Tội bắt cóc con tin với các tội phạm khác có liên quan trong Bộ luật Hình sự năm 2015, từ đó đưa ra các luận cứ khoa học cho cơ quan có thẩm ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng

Bộ luật Hình sự năm 2015 ra đời với nhiều điểm mới nhằm thể chế hoá những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng, hoàn thiện pháp luật hình sự, cải cách tư pháp, triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013. Bên cạnh đó, nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999 trên cơ sở đáp ứng ứng yêu cầu thực tiễn, thực thi một cách nghiêm túc, thiện chí các cam kết quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống các tội phạm có tính chất quốc tế, trong đó có tội phạm khủng bố. Hiện nay, Việt Nam đã ký kết, gia nhập 12 trên tổng số 16 điều ước đa phương về chống khủng bố[1]. Gần đây nhất, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin (1979)[2]. Chính vì thế, yêu cầu “nội luật hóa các quy định trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên...”[3] trên cơ sở phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam đã được quán triệt trong quá trình xây dựng cũng như quá trình triển khai áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015. Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung 02 tội danh trực tiếp quy định về hành vi khủng bố (Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân và Tội khủng bố), Bộ luật Hình sự năm 2015 còn tội phạm hóa một số hành vi khác mà pháp luật quốc tế xem là tội phạm khủng bố, trong đó có hành vi bắt cóc con tin (“Taking of hostages” hay “Hostages taking”). Việc tội phạm hóa hành vi bắt cóc con tin vào Bộ luật Hình sự năm 2015 góp phần nội luật hóa yêu cầu của Công ước 1979 về chống bắt cóc con tin (Tên tiếng Anh: “1979 International Convention against the Taking of Hostages”, sau đây gọi tắt là Công ước 1979). Do vậy, việc tìm hiểu cấu thành Tội bắt cóc con tin phải trên cơ sở tìm hiểu quy định của văn kiện pháp lý quốc tế về hành vi này.


1. Cấu thành cơ bản của Tội bắt cóc con tin

Khoản 1, Điều 301 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nàobắt giữ, giam người khác làm con tin và đe dọa giết, làm bị thương hoặc tiếp tục giam, giữ người đó nhằm cưỡng ép một quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân làm hoặc không làm một việc như một điều kiện để thả con tin, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 113 - Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân và Điều 299 - Tội khủng bố….”

Chúng ta có thể thấy cấu thành Tội bắt cóc con tin trong Bộ luật Hình sự 2015 rất tương đồng với quy định của Công ước 1979 về hành vi bắt cóc con tin[4], thể hiện qua một số điểm đặc trưng về dấu hiệu pháp lý như sau:

Về khách thể, Tội bắt cóc con tin trực tiếp xâm phạm an toàn, trật tự công cộng, đồng thời xâm phạm các quyền nhân thân của con người, nhất là quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể... Do vậy, Tội bắt cóc con tin được nhà làm luật quy định tại Mục 3, Chương 21 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng).

Hành vi khách quan của Tội bắt cóc con tin bao gồm 02 nhóm hành vi: Hành vi bắt giữ, giam người khác làm con tin; hành vi đe dọa giết, làm bị thương hay đe dọa tiếp tục giam, giữ con tin.

Tội phạm được thực hiện với hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích phạm tội là nhằm cưỡng ép một quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân làm hoặc không làm một việc như một điều kiện để thả con tin (chẳng hạn cung cấp tiền chuộc hay lợi ích vật chất, đòi hỏi một sự nhượng bộ nào đó từ phía Nhà nước...). Đây là dấu hiệu bắt buộc để định tội và là cơ sở để phân biệt giữa tội phạm này với một số tội phạm khác có hành vi tương tự.

Tội bắt cóc con tin có cấu thành hình thức, cho nên chỉ cần người phạm tội thực hiện các hành vi khách quan với mục đích nêu trên là tội phạm đã hoàn thành mà không cần hậu quả xảy ra.

Việc tội phạm hóa hành vi này trong pháp luật hình sự Việt Nam sẽ là cơ sở pháp lý để Việt Nam đấu tranh với hành vi do các nhóm khủng bố tiến hành với thủ đoạn bắt cóc con tin để nhằm đòi tiền chuộc hay nhằm đạt được nhượng bộ về chính trị. Xuất phát từ góc độ luật pháp quốc tế, Tội bắt cóc con tin thuộc nhóm tội phạm khủng bố. Đây là loại tội phạm có tính chất quốc tế, được điều chỉnh bởi Công ước 1979, cho nên, hầu hết pháp luật hình sự các quốc gia trên thế giới đều tội phạm hóa hành vi này. Do vậy, để làm rõ hơn về bản chất pháp lý cũng như đặc điểm của Tội bắt cóc con tin, chúng ta có thể tham khảo pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới, cụ thể là Hoa Kỳ và Liên bang Nga - những nước đã nội luật hóa quy định của Công ước 1979 vào pháp luật hình sự và có nhiều kinh nghiệm trong việc vận dụng pháp luật hình sự để đấu tranh, xử lý hành vi bắt cóc con tin trên thực tế. Cụ thể, trong pháp luật hình sự Hoa Kỳ, Tội bắt cóc con tin (“Hostage taking”) tại 18 U.S. Code § 1203[5]. Tương tự, Tội bắt cóc con tin cũng được quy định tại Điều 206 Bộ luật Hình sự năm 1996 Liên bang Nga (Luật số 63 ngày 13/6/1996)[6]. Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh với hành vi bắt cóc con tin ở các quốc gia này, dấu hiệu đặc trưng của Tội bắt cóc con tin được giải thích[7]: Bắt cóc con tin là hành vi bắt giữ một hay nhiều người làm con tin với mục đích đạt được lợi ích (tiền chuộc…) hay một sự nhượng bộ nào đó từ bên thứ ba (là nhà nước, tổ chức hoặc công dân…). Trong nhiều trường hợp, mục đích thứ hai của người phạm tội là nhằm thu hút sự quan tâm của phương tiện đại chúng cũng như của công chúng về vụ việc và về yêu cầu của người phạm tội. Người phạm tội thường tạo ra sự đối đầu trực tiếp và đưa ra yêu cầu với cơ quan chức năng. Đây cũng là phương thức mà các phần tử khủng bố hay tổ chức khủng bố tiến hành để đòi tiền chuộc từ bên thứ ba.

2. Một vấn đề khác cần lưu ý khi tìm hiểu cấu thành Tội bắt cóc con tin

Hành vi khách quan của Tội bắt cóc con tin có sự “chồng lấn”, “giao thoa” với hành vi khách quan của một số tội phạm khác quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015, bao gồm: Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113); Tội khủng bố (Điều 299); Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157); Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169). Do đó, làm rõ điểm khác biệt giữa cấu thành tội bắt cóc con tin với cấu thành các các tội phạm khác là cần thiết.

Thứ nhất, sự khác nhau giữa nhóm tội phạm trực tiếp quy định hành vi khủng bố (Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân và Tội khủng bố) với Tội bắt cóc con tin chủ yếu dựa vào mục đích phạm tội. Cụ thể, nếu hành vi bắt cóc con tin nhằm khủng bố, tức nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân hay gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân thì sẽ xử lý về tội khủng bố; còn bắt cóc người khác nhằm cưỡng ép bên thứ 3 làm hoặc không làm một việc như một điều kiện để thả con tin sẽ thỏa mãn cấu thành của Tội bắt cóc con tin.

Thứ hai, phân biệt Tội bắt cóc con tin với Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157). Khác với Tội bắt cóc con tin, khách thể trực tiếp của Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Hành vi khách quan của 02 tội phạm này cũng có sự khác nhau. Trong Tội bắt cóc con tin, sau khi người phạm tội có hành vi bắt giữ, giam người trái pháp luật, người phạm tội còn có hành vi “đe dọa giết, làm bị thương...”. Mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, trong khi đó mục đích “cưỡng ép” bên thứ 3 là mục đích của Tội bắt cóc con tin.

Thứ ba, phân biệt Tội bắt cóc con tin với Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169). Ở góc độ lý luận, rõ ràng không dễ dàng để xác định ranh giới giữa Tội bắt cóc con tin với Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nếu như trong cả 02 trường hợp mục đích phạm tội của người bắt cóc là nhằm đạt được lợi ích vật chất nào đó (chẳng hạn tiền chuộc...).

Cấu thành Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản được quy định từ rất lâu trong pháp luật hình sự Việt Nam và hầu như không có sự thay đổi trong các lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự Việt Nam. Bộ luật Hình sự năm 2015 tiếp tục quy định Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản tại Điều 169 Chương 16 Các tội xâm phạm sở hữu. Theo cách hiểu thông thường, hành vi khách quan của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là “hành vi bắt người một cách đột ngột và đem giấu đi”[8] nhằm chiếm đoạt tài sản. Điều này cũng phù hợp với cách quy định và cách giải thích về hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự các nước trên thế giới. Chẳng hạn, trong pháp luật hình sự Liên bang Nga, hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân thuộc cấu thành Tội bắt cóc (“Kidnapping”) quy định tại Điều 126 Bộ luật Hình sự Liên bang Nga. Tội bắt cóc trong Luật hình sự Nga (bất kỳ mục đích phạm tội là gì) được Tòa án Tối cao Liên bang Nga hướng dẫn như sau[9]: Bắt cóc ở đây là hành vi trái pháp luật, cố ý bắt, giữ bí mật hoặc công khai người khác và sau đó di chuyển trái ý muốn nạn nhân từ nơi thường trú, tạm trú đến một nơi khác... Dấu hiệu quan trọng trong mặt khách quan của tội phạm này chính là việc bắt giữ và di chuyển nạn nhân đến một nơi nào đó. Mục đích phạm tội có thể vì lợi ích vật chất (trong trường hợp này thì giống cấu thành Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam). Tương tự trong pháp luật hình sự Hoa Kỳ, Tội bắt cóc (“Kidnapping”) được quy định tại 18 U.S. Code § 1201[10] và được giải thích[11]: Đối với Tội bắt cóc, người phạm tội sau khi bắt cóc thì di chuyển và lẩn tránh, không ai có thông tin về chủ thể của tội phạm và nơi người phạm tội đang giam, giữ nạn nhân. Trong một số trường hợp, người phạm tội để lại thông tin liên lạc (số điện thoại…), yêu cầu về số tiền chuộc, cách thức chuyển tiền... cho nạn nhân, nhưng bí mật, nhất là đối với cơ quan chức năng. Thậm chí, trong một số trường hợp, cũng khó xác định là người phạm tội có thật sự đã bắt cóc và đang giữ con tin.

Trên cơ sở nhận thức như vậy, về mặt khoa học có thể nêu ra những điểm khác nhau cơ bản về cấu thành tội phạm của 02 tội như sau:

- Về khách thể trực tiếp: Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản xâm phạm đến quyền tự do thân thể, tính mạng, sức khỏe, quyền sở hữu... của công dân; trong khi đó tính chất nguy hiểm của Tội bắt cóc con tin thể hiện qua việc xâm phạm đến an toàn, trật tự chung của xã hội;

- Về mục đích phạm tội: Chiếm đoạt tài sản của công dân là dấu hiệu đặc trưng của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, trong khi đó người phạm tội bắt cóc con tin nhằm cưỡng ép bên thứ ba đáp ứng điều kiện nào đó của người phạm tội (không chỉ lợi ích vật chất);

- Về thủ đoạn phạm tội: Người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản sau khi bắt giữ con tin thường bí mật đưa con tin đi lẫn trốn, từ nơi này đến nơi khác, tránh sự phát hiện của lực lượng chức năng; có thể người phạm tội chỉ cung cấp thông tin cần thiết (số điện thoại liên lạc, nơi giao tiền chuộc...) cho người khác (thường là người thân thích của nạn nhân). Trong khi đó, người phạm tội bắt cóc con tin thường gây sự chú ý của nhiều người (nhất là phương tiện thông tin đại chúng...), gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự xã hội, xâm phạm đến cuộc sống yêu bình của người dân.

Nguyễn Quyết Thắng

Đại học An ninh nhân dân


[1] Ban chỉ đạo phòng, chống khủng bố, Bộ Công an, Các Điều ước quốc tế, Asean và pháp luật Việt Nam về phòng, chống khủng bố, Nxb. Công an nhân dân, 2013.

[2] Công ước này đã có hiệu lực với nước ta vào ngày 8/2/2014.

[3] Bộ Tư pháp, Báo cáo số 35/BC-BTP về Kết quả tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật Hình sự (ngày 12 tháng 02 năm 2015), Hà Nội, trang 27.

[4] Điều 1 Công ước quy định: “Bất cứ người nào bắt giữ hoặc giam giữ và đe dọa giết, làm bị thương hoặc tiếp tục giữ người khác để buộc bên thứ ba, cụ thể là một quốc gia, một tổ chức liên chính phủ quốc tế, một pháp nhân hoặc thể nhân hoặc nhóm người phải làm hoặc không làm một việc như một điều kiện rõ ràng hoặc điều kiện ngầm cho việc phóng thích con tin thì bị coi là phạm tội bắc cóc con tin”.

[5] https://www.law.cornell.edu/uscode/text/18/1203

[6] Bộ luật Hình sự Liên bang Nga đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Lần sửa đổi gần nhất vào ngày 03/07/2016, có hiệu từ ngày 15/7/2016-

Xem nguyên bản tiếng Nga tại: http://www.consultant.ru/document/Cons_doc_law_10699/

[7] Frank Bolz, Jr., Kenneth J.Dudonis, David P.Schulz (2012), The Counterterrorism Handbook: Tactics, Procedures, and Techniques, CRC Press, trang 120

[8] Minh Tân - Thanh Nghi - Xuân Lãm (2014), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Thanh Hóa, tr. 65.

[9] Xem tại https://www.referent.ru/7/54663/

[10] Xem tại https://www.law.cornell.edu/uscode/text/18/1201

[11]Frank Bolz, Jr., Kenneth J.Dudonis, David P.Schulz (2012), The Counterterrorism Handbook: Tactics, Procedures, and Techniques, CRC Press, trang 121.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Giải trừ trách nhiệm của công chức thuế, tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp

Luật số 56/2024/QH15 bổ sung quy định về trách nhiệm của công chức thuế theo hướng giải trừ trách nhiệm cho công chức thuế khi có gian lận trong kê khai, cung cấp thông tin tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp chân chính.

Cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng

Hải Phòng là địa phương luôn nỗ lực, tích cực thực hiện cải cách thủ tục hành chính, với mục tiêu tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, trong đó phải kể đến lĩnh vực cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Điều này được thể hiện rõ nét qua sự quyết tâm, chủ động, sáng tạo trong triển khai, thực hiện các văn bản, quy định nhằm cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân trong bối cảnh chuyển đổi số và những khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết bàn về những vấn đề cơ bản của quyền riêng tư và sự cần thiết phải bảo vệ quyền riêng tư; phân tích các vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân theo pháp luật quốc tế, từ đó đúc kết và đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số.

Bảo đảm quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết nghiên cứu về những vấn đề đặt ra đối với việc bảo đảm quyền văn hóa của người dân tộc thiếu số ở nước ta hiện nay trong bối cảnh chuyển đổi số.

Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

Bài viết đề cập đến vấn đề xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp trong sạch, vững mạnh, liêm chính, chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nâng cao hiệu quả công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân ở các cơ sở giam giữ

Nâng cao hiệu quả công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân ở các cơ sở giam giữ

Thi đua chấp hành án phạt tù tại các cơ sở giam giữ là một trong những yêu cầu phạm nhân phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Kết quả của việc thi đua chấp hành án phạt tù là cơ sở để thực hiện các chính sách của Nhà nước đối với phạm nhân theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân thuộc về cơ sở giam giữ phạm nhân theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành cho thấy một số khó khăn, vướng mắc cần có giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đẩy mạnh hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đẩy mạnh hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Nhận thức rõ tầm quan trọng của dữ liệu lý lịch tư pháp trong tiến trình xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, công dân số, phục vụ tốt nhất cho người dân và doanh nghiệp thông qua việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua môi trường điện tử theo tinh thần của Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án số 06/CP của Chính phủ), được sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh, Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đã ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch số 64/KH-STP ngày 18/7/2024 về cao điểm nhập dữ liệu thông tin lý lịch tư pháp vào Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp dùng chung của Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum.

Công tác tư pháp 06 tháng cuối năm 2024: Tập trung hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành Tư pháp

Trong 06 tháng đầu năm 2024, Bộ, Ngành Tư pháp đã bám sát sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, sự điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, đoàn kết, trách nhiệm, tập trung triển khai toàn diện, kịp thời các nhiệm vụ được giao đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Theo đó, để hoàn thành tốt kế hoạch công tác năm 2024, Bộ, Ngành Tư pháp đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của 06 tháng cuối năm, trong đó xác định tiếp tục đổi mới, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tiếp tục đầu tư nguồn lực, cơ sở hạ tầng để đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong Ngành Tư pháp... góp phần vào công cuộc phát triển đất nước trong tình hình mới.
Một số ý kiến góp ý đối với Đề cương chi tiết Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006

Một số ý kiến góp ý đối với Đề cương chi tiết Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006

Một trong các nhiệm vụ và giải pháp được xác định trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã xác định: “Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật...”.
Hoạt động đấu giá tài sản tiếp tục được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa một cách mạnh mẽ

Hoạt động đấu giá tài sản tiếp tục được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa một cách mạnh mẽ

Ngày 27/6/2024, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản nhằm góp phần phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; tiếp tục nâng cao tính chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa của đội ngũ đấu giá viên, tổ chức đấu giá tài sản; khắc phục những hạn chế, bất cập, bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động đấu giá tài sản; nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước về đấu giá tài sản. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025.
Nỗ lực số hóa dữ liệu hộ tịch - Phấn đấu đẩy nhanh tiến độ, “về đích” sớm*

Nỗ lực số hóa dữ liệu hộ tịch - Phấn đấu đẩy nhanh tiến độ, “về đích” sớm*

Số hóa dữ liệu hộ tịch được xác định là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của Ngành Tư pháp năm 2024. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, các cơ quan đăng ký hộ tịch trên cả nước đang lưu trữ trên 08 triệu sổ đăng ký hộ tịch các loại, tương ứng với hơn 100 triệu dữ liệu hộ tịch, việc hoàn thành số hóa các dữ liệu hộ tịch vừa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ - xác định năm 2024 là năm số hóa dữ liệu, vừa bảo đảm cung cấp thông tin đầu vào, chia sẻ, đồng bộ dữ liệu dân cư, thúc đẩy việc triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 06).
Tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại tỉnh Quảng Trị

Tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại tỉnh Quảng Trị

Tổ chức, triển khai thực hiện đưa Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở vào cuộc sống là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng hiện nay góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng gắn với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”.

Đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp

Bài viết này khái quát về đơn giản hóa thủ tục hành chính và phân tích thực trạng về thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp, từ đó, đưa ra một số đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa các quy định, thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp trong thời gian tới.
Cấp phiếu lý lịch tư pháp qua ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế - Kết quả bước đầu và vấn đề cần hoàn thiện

Cấp phiếu lý lịch tư pháp qua ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế - Kết quả bước đầu và vấn đề cần hoàn thiện

Bài viết nêu lên những kết quả bước đầu của công tác thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế; từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID trong thời gian tới.
Dấu ấn vị Bộ trưởng qua gần 8 năm “dẫn dắt” ngành Tư pháp

Dấu ấn vị Bộ trưởng qua gần 8 năm “dẫn dắt” ngành Tư pháp

Gần 8 năm trên cương vị Bộ trưởng Tư pháp, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng Lê Thành Long luôn là vị Bộ trưởng của hành động, nắm chắc lý luận, sâu sát thực tiễn, truyền lửa đam mê tới mỗi công chức, viên chức, người lao động trong toàn Ngành.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm