1. Về bản chất của hợp tác xã và ý nghĩa thực tiễn của việc xác định đúng bản chất của hợp tác xã
1.1. Sự khác nhau giữa hợp tác xã với doanh nghiệp
Việc làm rõ bản chất của hợp tác xã là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu trong Dự thảo Luật Hợp tác xã (sửa đổi), bởi vì, bản chất của hợp tác xã là yếu tố quyết định nội dung của các vấn đề quan trọng khác liên quan đến hợp tác xã như quyền, nghĩa vụ của thành viên; quyền, nghĩa vụ của hợp tác xã; cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý hợp tác xã; xử lý tài sản khi giải thể hợp tác xã… Việc làm rõ bản chất của hợp tác xã còn có một ý nghĩa quan trọng khác là tạo cơ sở lý luận và thực tiễn để Nhà nước ban hành các chính sách ưu đãi, hỗ trợ có tính chất đặc thù cho hợp tác xã, khác với các chính sách chung mà Nhà nước đã ban hành để áp dụng cho các loại hình chủ thể kinh doanh khác đang hoạt động trong nền kinh tế nước ta, trong đó có doanh nghiệp. Hiện nay vẫn còn tồn tại hai loại ý kiến khác nhau về bản chất của hợp tác xã.
Ý kiến thứ nhất cho rằng, hợp tác xã phải được coi là một loại hình doanh nghiệp, trong khi đó, ý kiến thứ hai lại cho rằng, một hợp tác xã đích thực thì không thể bao giờ có tư cách ấy.
Chúng tôi cho rằng, giữa hợp tác xã và doanh nghiệp không phải không có điểm gì giống nhau. Ví dụ, giống như doanh nghiệp, hợp tác xã cũng phải đăng ký kinh doanh, phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp, phải phá sản khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn... Tuy nhiên, không thể vì thế mà coi hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp vì các lý do chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, xét về mặt thực tiễn lập pháp
Hiện nay, ở nước ta, doanh nghiệp và hợp tác xã được điều chỉnh bởi luật riêng. Các loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần và công ty hợp danh) được điều chỉnh trong cùng một đạo luật là Luật Doanh nghiệp năm 2005. Hợp tác xã cũng có luật riêng của mình là Luật Hợp tác xã năm 2003. Vấn đề đặt ra là, nếu là một loại hình doanh nghiệp thì tại sao hợp tác xã đã không được đưa vào điều chỉnh trong Luật Doanh nghiệp năm 2005? Như vậy, việc tồn tại một cách riêng biệt hai hệ thống pháp luật về doanh nghiệp và hợp tác xã (mà nòng cốt là Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật Hợp tác xã năm 2003) là một căn cứ về mặt lập pháp cho thấy, không thể coi hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp theo đúng nghĩa của nó. Sự phân biệt doanh nghiệp với hợp tác xã còn được thể hiện ở chỗ, trong các luật có liên quan đều tách riêng khái niệm doanh nghiệp và hợp tác xã. Ví dụ, khi quy định đối tượng áp dụng của Luật Phá sản năm 2004, Điều 2 của Luật này đã xác định đối tượng bị phá sản bên cạnh các loại hình doanh nghiệp còn có một chủ thể khác là hợp tác xã. Như vậy, trong pháp luật hiện hành của Nhà nước ta đã không có sự đánh đồng giữa hợp tác xã với doanh nghiệp.
Thứ hai, xét về các đặc điểm của doanh nghiệp và hợp tác xã
Muốn xác định hợp tác xã là gì, có phải là doanh nghiệp hay không, cần phải xuất phát từ các đặc điểm riêng có của nó. Qua nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, hợp tác xã khác với doanh nghiệp ở một số đặc thù chủ yếu sau đây:
+ Về lý do ra đời: Nếu như doanh nghiệp ra đời là để đáp ứng nhu cầu của thị trường, tức là nhu cầu của đông đảo người tiêu dùng trong xã hội, thì hợp tác xã ra đời là để đáp ứng các nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích chung của một nhóm người nhất định – những người đã thành lập ra hợp tác xã. Đặc điểm này đã làm cho hợp tác xã không thể có đầy đủ các quyền trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong đó có quyền tự do lựa chọn ngành nghề, mặt hàng kinh doanh như các loại hình doanh nghiệp.
+ Về tư cách pháp lý của thành viên: Nếu như đối với doanh nghiệp, người tham gia thành lập doanh nghiệp chỉ có một tư cách duy nhất là nhà đầu tư (nhà kinh doanh) thì đối với hợp tác xã, thành viên luôn có hai tư cách: Họ vừa là người chủ của hợp tác xã lại, vừa là khách hàng của hợp tác xã (người sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã).
+ Về mục đích hoạt động: Nếu như doanh nghiệp được thành lập là để kinh doanh, do đó, mục đích hàng đầu của doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận thì mục đích hoạt động của hợp tác xã lại hoàn toàn khác. Để đem lại lợi ích cho thành viên thông qua việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ cho họ thì cũng như các tổ chức kinh tế khác, hợp tác xã phải lựa chọn phương án đầu tư, sản xuất, kinh doanh thích hợp và có hiệu quả, tức là, mọi hoạt động của hợp tác xã với thị trường bên ngoài phải được tính toán trên cơ sở lấy thu bù chi và đảm bảo có thu nhập. Tuy nhiên, không phải vì thế mà cho rằng, hợp tác xã hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Đó là điểm khác giữa hợp tác xã và doanh nghiệp xét về mục đích hoạt động. Ngoài ra, trên phương diện này, hợp tác xã còn khác doanh nghiệp ở chỗ, bên cạnh mục đích tối đa hóa lợi ích cho các xã viên, hợp tác xã còn có các mục tiêu cao cả khác mà doanh nghiệp không thể có được, đó là sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên, sự quan tâm đến sự phát triển của cộng đồng.
+ Về cơ chế quản lý: Nếu như trong doanh nghiệp, đặc biệt là trong các công ty đối vốn như công ty cổ phần, quyền lực nói chung và quyền lực trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp nói riêng được phân bổ cho các thành viên theo tỷ lệ vốn góp của họ (ai góp nhiều vốn thì người đó có nhiều quyền lực và ngược lại), thì trong hợp tác xã, tất cả các thành viên đều có quyền ngang nhau mà không phụ thuộc vào số lượng vốn mà họ đã góp vào hợp tác xã là nhiều hay ít. Tóm lại, nguyên tắc bình đẳng trong quản lý luôn là đặc điểm nổi trội, giúp hợp tác xã khác biệt với doanh nghiệp.
+ Về nguyên tắc phân phối thu nhập: Nếu như trong doanh nghiệp, lợi nhuận thu được được phân chia cho các thành viên chủ yếu theo tỷ lệ vốn góp thì trong hợp tác xã lại áp dụng một nguyên tắc hoàn toàn khác, đó là, nguyên tắc phân chia thu nhập chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm và dịch vụ của hợp tác xã. Điều này có nghĩa là, trong hợp tác xã, thành viên nào sử dụng nhiều sản phẩm, dịch vụ do hợp tác xã cung ứng, thì thành viên đó được hưởng nhiều hơn từ thu nhập do hợp tác xã mang lại. Như vậy, việc phân chia thu nhập theo vốn góp trong hợp tác xã, nếu có thì cũng chỉ là nguyên tắc có vị trí thứ yếu mà thôi.
1.2. Ý nghĩa thực tiễn của việc xác định đúng bản chất của hợp tác xã
Việc xác định đúng bản chất của hợp tác xã thông qua việc phân biệt nó với doanh nghiệp không chỉ có ý nghĩa về mặt học thuật mà còn có giá trị thực tiễn to lớn, cụ thể là:
Thứ nhất, góp phần chấm dứt tình trạng đang rất phổ biến hiện nay là nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng tư cách hợp tác xã để trục lợi thông qua việc hưởng dụng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ mà Nhà nước đã ban hành chỉ để dành riêng cho hợp tác xã.
Như trên đã phân tích, một hợp tác xã đích thực thì không thể có tư cách là doanh nghiệp. Đó là hai chủ thể tuy có thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên thương trường nhưng khác hẳn nhau về bản chất. Cũng như đã trình bày ở phần trên, xuất phát từ các đặc thù riêng của mình nên hợp tác xã ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam luôn được Nhà nước dành cho những ưu đãi, hỗ trợ nhất định mà các doanh nghiệp không có quyền được hưởng. Tuy nhiên, thực tế ở nước ta thời gian qua cũng đã cho thấy, không ít chủ thể kinh doanh tuy được gọi là hợp tác xã nhưng thực chất lại là doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp biết mình không phải là hợp tác xã nhưng vẫn tự xưng là hợp tác xã cốt để được hưởng các chính sách ưu đãi mà chỉ có những hợp tác xã đích thực mới được hưởng. Vì vậy, nếu Luật Hợp tác xã (mới) được ban hành với một sự phân biệt rạch ròi hợp tác xã với doanh nghiệp thì sự “đội lốt” này chắc chắn sẽ không còn cơ sở pháp lý để tồn tại và như vậy Luật này sẽ góp phần to lớn vào việc chấm dứt một thực tế tiêu cực đã xảy ra trong thời gian qua, đó là, nhiều doanh nghiệp đã giả danh hợp tác xã để hưởng lợi từ chính sách của Nhà nước.
Thứ hai, việc phân biệt một cách rạch ròi doanh nghiệp với hợp tác xã còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội to lớn, nó tạo cơ sở lý luận vững chắc để Nhà nước thấy rõ điểm mạnh, điểm yếu của hợp tác xã, giá trị kinh tế, giá trị xã hội của hợp tác xã so với doanh nghiệp, để trên cơ sở đó mạnh dạn đề ra các chính sách đặc thù có tính chất ưu đãi đối với hợp tác xã. Cũng cần phải khẳng định rằng, trong thời gian qua, Nhà nước ta cũng đã có không ít chính sách đặc thù dành cho hợp tác xã, tuy nhiên, do chưa nhận thức được một cách đầy đủ sự khác biệt giữa hợp tác xã với doanh nghiệp cũng như vai trò và tác dụng to lớn của hợp tác xã đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nên các chính sách này vẫn chưa được ban hành một cách đầy đủ, có hệ thống và đủ mạnh để đảm bảo cho hợp tác xã được thành lập và hoạt động một cách có hiệu quả. Hy vọng rằng, với nhận thức mới, đúng đắn về bản chất của hợp tác xã, thì sắp tới Nhà nước ta sẽ có nhiều chính sách hữu hiệu hơn cho các tổ chức kinh tế đặc thù này.
Thứ ba, việc phân biệt hợp tác xã với doanh nghiệp còn có ý nghĩa to lớn trong việc đưa ra các quy định đặc thù đối với hợp tác xã, mà từ trước đến nay do không có được sự phân biệt rõ ràng này nên đã không được quy định một cách đầy đủ trong Luật Hợp tác xã năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể là, trên cơ sở tìm ra các điểm đặc thù, riêng có của hợp tác xã mà trong Dự thảo Luật Hợp tác xã đã được bổ sung nhiều quy định về các vấn đề rất cơ bản liên quan đến bản chất đích thực của hợp tác xã sau đây: Về giới hạn vốn góp tối đa của một thành viên trong vốn điều lệ của hợp tác xã (khoản 1 Điều 18); về sự bắt buộc thành viên phải sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã và nếu vi phạm nghĩa vụ này thì thành viên có thể bị khai trừ khỏi hợp tác xã (điểm g khoản 1 Điều 17); về sự bắt buộc phải có quy định nhằm hạn chế việc hợp tác xã cung ứng sản phẩm, dịch vụ ra ngoài cộng đồng thành viên (khoản 3 Điều 9); về nguyên tắc, theo đó, một thành viên, bất luận địa vị pháp lý của mình là như thế nào đều có một phiếu trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hợp tác xã (khoản 4 Điều 15); về sự đề cao nguyên tắc phân phối thu nhập theo mức độ sử dụng sản phẩm dịch vụ của hợp tác xã so với các nguyên tắc phân phối khác trong hợp tác xã (khoản 2 Điều 49); về sự cần thiết phải có tài sản chung không chia trong hợp tác xã (khoản 2 Điều 51)
2. Về mức vốn góp tối đa của một thành viên hợp tác xã (khoản 1 Điều 18)
Hợp tác xã là tổ chức được thành lập để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của các xã viên. Muốn thực hiện được nhiệm vụ này, thì không hợp tác xã nào lại không cần đến vốn góp của các thành viên để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho việc thực hiện các hoạt động kinh tế có liên quan. Tuy nhiên, nếu như đối với doanh nghiệp, vấn đề hạn chế việc góp vốn không bao giờ phải đặt ra thì đối với hợp tác xã, đây lại là vấn đề nóng. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này xuất phát từ tính chất đối nhân của hợp tác xã, đặc biệt là từ nguyên tắc bình đẳng trong quản lý của tất cả các xã viên. Về vấn đề này còn hai ý kiến khác nhau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng, cần tiếp tục kế thừa quy định của Luật Hợp tác xã năm 2003, theo đó, “mức vốn góp tối đa của một thành viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không vượt quá 30% vốn điều lệ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã”.
Ý kiến thứ hai, dựa trên khuyến cáo của Liên minh Hợp tác xã Quốc tế, theo đó, Luật Hợp tác xã các nước không nên cho phép một thành viên góp vốn quá 20% vốn điều lệ của hợp tác xã và trên cơ sở nghiên cứu thực tế giải quyết vấn đề này ở nhiều nước trên thế giới (thực tế Luật Hợp tác xã các nước đều quy định mức vốn tối đa của một thành viên trong tổng số vốn điều lệ của một hợp tác xã là từ 5% đến 20%) cho rằng, mức vốn góp tối đa của một thành viên như quy định trong Luật Hợp tác xã năm 2003 là quá cao. Vì vậy, ý kiến này đề nghị Dự thảo Luật cần quy định theo hướng mức vốn góp tối đa của một thành viên hợp tác xã không được vượt quá 20% vốn điều lệ của hợp tác xã; mức vốn góp tối đa của thành viên liên hiệp hợp tác xã không vượt quá 30% vốn điều lệ của liên hiệp hợp tác xã.
Chúng tôi nhất trí với quan điểm thứ hai, theo đó, cần phải quy định mức vốn góp tối đa của một thành viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nhằm ghi nhận sự khác biệt giữa hợp tác xã với các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là để đề cao và bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng trong quản lý hợp tác xã. Ngoài ra, nếu không khống chế số vốn góp tối đa thì thành viên có mức góp vốn cao sẽ được chia lãi nhiều hơn theo tỷ lệ vốn góp và như vậy sẽ vi phạm nguyên tắc, theo đó, thu nhập của hợp tác xã được phân chia chủ yếu theo tỷ lệ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã. Sự cần thiết phải hạn chế mức vốn góp vào hợp tác xã của các thành viên còn xuất phát từ một nguyên tắc có tính chất nền tảng của hợp tác xã là một thành viên chỉ có một phiếu biểu quyết. Mục đích của việc thành lập nguyên tắc này là nhằm đảm bảo tính dân chủ, bình đẳng trong quản lý hợp tác xã, do đó, nếu không hạn chế mức vốn góp tối đa, để thành viên muốn góp vốn bao nhiêu cũng được, thì nguyên tắc này sẽ bị vô hiệu hóa vì trên thực tế, người có quá nhiều vốn sẽ có thực quyền hơn so với người góp ít vốn. Mặt khác, nếu để cho một thành viên góp vốn với tỷ lệ quá cao thì việc rút vốn của thành viên này sẽ làm cho hợp tác xã phải giải thể. Nghiên cứu kinh nghiệm các nước cho thấy, trong các luật về hợp tác xã đều có quy định hạn chế tỷ lệ góp vốn của thành viên. Trên cơ sở cân nhắc điều kiện thực tiễn của Việt Nam hiện nay và với việc quy định thêm một số cơ chế mới nhằm giúp hợp tác xã có thể huy động thêm vốn để hoạt động mà không cần đến phương pháp tăng vốn góp từ các thành viên, Điều 47 Dự thảo Luật Hợp tác xã đã quy định tỷ lệ này là 20% đối với hợp tác xã. Chúng tôi đồng ý với việc hạ tỷ lệ này.
3. Về giới hạn sản phẩm, dịch vụ mà hợp tác xã được cung cấp cho thị trường bên ngoài cộng đồng thành viên (khoản 1 Điều 9)
Như trên đã trình bày, khác với doanh nghiệp, hợp tác xã được thành lập là để phục vụ các thành viên của mình thông qua việc đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của các xã viên. Tuy nhiên, trên thực tế, trong nhiều trường hợp, ngoài việc tập trung năng lực để đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chung của các thành viên thì hợp tác xã vẫn còn dư năng lực để có thể đáp ứng các nhu cầu của các chủ thể khác không phải là thành viên của hợp tác xã. Vì vậy, đã đặt ra vấn đề là có nên cho phép hợp tác xã cung ứng sản phẩm, dịch vụ ra bên ngoài hay không và nếu cho phép thì nên ở mức độ nào là hợp lý. Hiện đang có hai ý kiến khác nhau về vấn đề này.
Ý kiến thứ nhất cho rằng, Nhà nước không nên khống chế trong pháp luật về tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ mà hợp tác xã được cung cấp cho thị trường bên ngoài mà nên giao cho hợp tác xã tự quy định tỷ lệ này trong Điều lệ của mình.
Ý kiến thứ hai lại cho rằng, Nhà nước cần khống chế tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ mà hợp tác xã được cung cấp cho thị trường bên ngoài mà không nên giao cho hợp tác xã tự quy định.
Để giải quyết vấn đề này cần xuất phát từ một vấn đề có tính chất nền tảng, đó là lý do ra đời của hợp tác xã. Như đã khẳng định ở trên, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế do các thành viên lập ra nhằm giúp các thành viên thoả mãn tốt hơn các nhu cầu, nguyện vọng chung của mình, do đó, về nguyên tắc, mọi năng lực của hợp tác xã trước hết phải được sử dụng nhằm phục vụ cho các thành viên rồi sau đó nếu còn khả năng thì mới tham gia cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho thị trường bên ngoài. Trên quan điểm như vậy, chúng tôi đồng ý với ý kiến thứ hai, theo đó, việc khống chế tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ mà hợp tác xã được phép cung cấp cho thị trường bên ngoài cộng đồng thành viên là vấn đề có tính nguyên tắc, do đó cần phải được quy định trong pháp luật. Vấn đề tiếp theo là cần khống chế tỷ lệ này bằng văn bản nào (luật hay văn bản dưới luật) và bao nhiêu thì vừa? Về vấn đề này, các nước khác nhau có cách giải quyết khác nhau. Ví dụ, ở Thái Lan, luật cấm hợp tác xã cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho những đối tượng không phải là thành viên hợp tác xã. Trong khi đó, pháp luật của nhiều nước, trong đó có Cộng hòa Pháp và Hàn Quốc thì lại cho phép hợp tác xã có quyền này nhưng ở một mức độ nhất định, thông thường là không quá 20%. Ở Bang Québec (Canada), thì tỷ lệ này được xác định ngay trong luật là không quá 50% tổng số sản phẩm, dịch vụ mà hợp tác xã cung ứng trong năm. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, chúng tôi nhất trí với quy định của Dự thảo Luật theo hướng không quy định tỷ lệ hạn chế ngay trong Luật, mà nên giao cho điều lệ hợp tác xã xác định tỷ lệ cụ thể trên cơ sở hướng dẫn của Chính phủ để bảo đảm tỷ lệ này được xác định phù hợp với từng hợp tác xã trong các ngành, lĩnh vực và phù hợp với từng giai đoạn nhất định.
4. Về việc hợp tác xã thành lập công ty, góp vốn, mua cổ phần vào doanh nghiệp khác (khoản 8 Điều 9)
Vấn đề hợp tác xã có quyền thành lập công ty, góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp khác hay không cũng có hai ý kiến khác nhau.
Ý kiến thứ nhất cho rằng, Luật Doanh nghiệp năm 2005 không cấm các pháp nhân, trong đó có hợp tác xã tham gia góp vốn, mua cổ phần, thành lập doanh nghiệp nên đề nghị Luật Hợp tác xã mới không nên “truất” quyền này của hợp tác xã.
Ý kiến thứ hai cho rằng, hợp tác xã được tham gia góp vốn, mua cổ phần, thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 nhưng cần tuân thủ một số yêu cầu và điều kiện nhất định do Chính phủ quy định để tránh rủi ro cho hợp tác xã, đồng thời bảo đảm cho hợp tác xã luôn giữ được bản chất đích thực của mình.
Chúng tôi nhất trí với chủ trương cho phép hợp tác xã được thành lập doanh nghiệp và góp vốn, mua cổ phần ở các doanh nghiệp khác theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 nhưng cũng cần có khuôn khổ pháp lý nhất định cho việc thực hiện các quyền này. Ví dụ, phải có quy định theo hướng hợp tác xã không thể thành lập công ty để kinh doanh bất cứ ngành nghề, sản phẩm, dịch vụ nào mà chỉ được kinh doanh những ngành nghề, sản phẩm, dịch vụ có liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các thành viên, góp phần giúp hợp tác xã thỏa mãn tốt hơn các nhu cầu, nguyện vọng chung của họ. Ngoài ra, để hạn chế tình trạng hợp tác xã có thể sử dụng một cách tùy tiện các quyền này, cần nghiên cứu, bổ sung quy định về việc hạn chế một tỷ lệ vốn góp trên vốn điều lệ của hợp tác xã mà hợp tác xã được phép sử dụng để đầu tư thành lập công ty trực thuộc hoặc góp vốn, mua cổ phần.
5. Về chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển hợp tác xã
Hợp tác xã là một loại hình tổ chức kinh tế mà các thành viên tham gia thường là những người yếu thế trong xã hội. Vì vậy, các nước đều có chính sách đặc thù theo hướng dành cho hợp tác xã một số chính sách ưu đãi để hỗ trợ hợp tác xã phát triển. Ở Việt Nam cũng vậy, sự quan tâm này được thể hiện ở chỗ, trong Dự thảo Luật Hợp tác xã đã dành hẳn một chương để quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, trong khi nhất trí cao với sự cần thiết phải có chương này, thì nhiều người lại không đạt được sự thống nhất trong cách thức ghi nhận các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với hợp tác xã. Hiện nay, có hai loại ý kiến khác nhau về vấn đề này: Ý kiến thứ nhất cho rằng, cần quy định cụ thể, chi tiết ngay trong Luật Hợp tác xã các chính sách hỗ trợ đối với hợp tác xã; ý kiến thứ hai cho rằng, Luật này chỉ cần có các quy định mang tính nguyên tắc về chính sách hỗ trợ hợp tác xã, còn các chính sách cụ thể sẽ do Chính phủ ban hành căn cứ vào tình hình hoạt động của các loại hình hợp tác xã và nguồn lực của Nhà nước trong từng giai đoạn.
Chúng tôi cho rằng, đối với các chính sách hỗ trợ, pháp luật càng quy định rõ ràng, cụ thể càng tốt cho hợp tác xã. Tuy nhiên, việc thực hiện các chính sách này đòi hỏi phải có nguồn lực, phải căn cứ vào tình hình cụ thể của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của kinh tế hợp tác nói riêng, nên nếu quy định cụ thể các chính sách trong Luật thì một mặt, dễ dẫn đến tình trạng thiếu khả thi, mặt khác, lại bị cứng nhắc, khó thay đổi để đáp ứng một cách linh hoạt với tình hình của thực tiễn luôn biến động. Vì vậy, Luật Hợp tác xã chỉ cần đưa ra một số quy định mang tính nguyên tắc về chính sách hỗ trợ đối với hợp tác xã và giao Chính phủ quy định cụ thể các chính sách này cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
TS. Dương Đức Chính