Thứ ba 17/06/2025 11:29
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số vướng mắc trong áp dụng quy định của pháp luật về nhận cha, mẹ, con

Quan hệ cha, mẹ, con là mối quan hệ đặc biệt quan trọng, vừa có ý nghĩa về mặt pháp lý, vừa có ý nghĩa về mặt xã hội. Về pháp lý, quan hệ cha, mẹ, con xác lập sẽ được pháp luật và cộng đồng thừa nhận

Quan hệ cha, mẹ, con là mối quan hệ đặc biệt quan trọng, vừa có ý nghĩa về mặt pháp lý, vừa có ý nghĩa về mặt xã hội. Về pháp lý, quan hệ cha, mẹ, con xác lập sẽ được pháp luật và cộng đồng thừa nhận, là cơ sở để thực hiện tốt những quy định về nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa cha, mẹ và con; về nghĩa vụ và quyền về tài sản giữa cha, mẹ và con; về thừa kế tài sản. Đồng thời, quan hệ cha, mẹ, con là điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con và của con đối với cha, mẹ. Khi được pháp luật thừa nhận, nếu có tranh chấp xảy ra giữa các thành viên trong gia đình thì mối quan hệ này sẽ là cơ sở để giải quyết nhanh chóng và kịp thời. Về xã hội, việc xác định quan hệ cha, mẹ, con sẽ xác lập được đơn vị là gia đình. Gia đình là cơ sở, là tế bào của xã hội, gia đình có vai trò duy trì nòi giống, tái sản xuất ra sức lao động bằng việc nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe cho các thành viên. Trong đó, cá nhân là thành viên của gia đình, đồng thời là một chủ thể trong xã hội và mỗi chủ thể đó đều có chức năng làm cho gia đình và xã hội ngày càng phát triển.

Chính vì tầm quan trọng đó, chế định pháp lý về cha, mẹ, con luôn được các nhà làm luật quan tâm xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Một số quy định chưa thực sự rõ ràng, còn nhiều chồng chéo, vướng mắc dẫn đến tình trạng khi xảy ra tranh chấp thì cơ quan chức năng còn lúng túng trong vấn đề áp dụng pháp luật. Tình huống sau đây là một ví dụ điển hình:

Chị A (xã X, huyện Y, tỉnh Z) sống chung với anh B cùng xã. Ngày 10/6/2013, sau một năm chung sống, anh B đã đi khỏi địa phương. Ngày 20/9/2013, chị A sinh cháu C và đăng ký khai sinh cho C theo họ của mẹ. Ngày 12/4/2017, chị A kết hôn với anh D cư trú cùng xã. Khi đăng ký kết hôn, chị A và anh D đã làm thủ tục bổ sung hộ tịch, để phần khai về cha của cháu C là anh D và cũng đổi họ cho cháu từ họ mẹ sang họ của anh D. Năm 2018, anh B quay về nơi cư trú, khiếu nại về việc khai sinh cho cháu C và cho rằng, trong giấy khai sinh của cháu C phải ghi anh B là cha.

Sự việc đã dẫn đến tranh chấp, mâu thuẫn và hiện có các quan điểm khác nhau về vấn đề này. Cụ thể:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, công chức tư pháp xã X, huyện Y, tỉnh Z đã giải quyết đúng quy định của pháp luật. Mặc dù cháu C sinh ra trước ngày chị A và anh D đăng ký kết hôn nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng, do đó, khi chị A và anh D đã làm thủ tục đăng ký kết hôn, đồng thời yêu cầu Ủy ban nhân dân xã X giải quyết việc nhận con của anh D thì công chức tư pháp - hộ tịch đã hướng dẫn anh chị làm thủ tục bổ sung hộ tịch để bổ sung phần khai về cha vào sổ đăng ký khai sinh và giấy khai sinh cho cháu C.

Cách giải quyết này phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 13 Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch (Thông tư số 15/2015/TT-BTP): “Trường hợp con do người vợ sinh ra trước thời điểm đăng ký kết hôn, đã được đăng ký khai sinh không có thông tin về người cha, vợ chồng có văn bản thừa nhận là con chung thì không phải làm thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con mà làm thủ tục bổ sung hộ tịch để ghi bổ sung thông tin về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và giấy khai sinh của người con”.

Mặt khác, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 27 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ trong trường hợp thay đổi họ cho con đẻ từ họ của cha đẻ sang họ của mẹ đẻ hoặc ngược lại. Do đó, anh D có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân xã X đổi họ của cháu C từ họ của mẹ thành họ của cha.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 7 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định, việc thay đổi họ, chữ đệm, tên cho người dưới 18 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Luật Hộ tịch phải có sự đồng ý của cha, mẹ người đó và được thể hiện rõ trong tờ khai; đối với người từ đủ 9 tuổi trở lên thì còn phải có sự đồng ý của người đó. Trong trường hợp trên, chị A và anh D đã đồng ý, thể hiện trong tờ khai được lưu tại hồ sơ của Ủy ban nhân dân xã X.

Cũng theo quan điểm này, nếu nảy sinh vấn đề tranh chấp về việc nhận cha, mẹ, con thì Ủy ban nhân dân xã X không có thẩm quyền giải quyết, bởi theo khoản 1 Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó là con mình. Do vậy, anh B muốn được nhận là cha của cháu C thì cần phải gửi đơn đến Tòa án nhân dân huyện Y để yêu cầu thụ lý giải quyết.

Quan điểm thứ hai cho rằng, việc nhận cha, con giữa ông D và cháu C là không đúng quy định. Theo đó, việc thay đổi họ từ họ mẹ sang họ cha cũng không đúng quy định. Hay nói cách khác, công chức tư pháp - hộ tịch xã X đã giải quyết vụ việc là không đúng.

Quan điểm này cho rằng, để nhận cha, mẹ, con thì cần phải có chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con theo đúng quy định tại Điều 11 Thông tư số 15/2015/TT-BTP. Các chứng cứ có thể là một trong các loại giấy tờ sau: Văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan khác có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha con, quan hệ mẹ con. Trường hợp không có các văn bản nêu trên, thì phải có thư từ, phim ảnh, băng, đĩa, đồ dùng, vật dụng khác chứng minh mối quan hệ cha con, quan hệ mẹ con và văn bản cam đoan của cha, mẹ về việc trẻ em là con chung của hai người, có ít nhất hai người thân thích của cha, mẹ làm chứng.

Khoản 2 Điều 13 Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy định trường hợp con do người vợ sinh ra trước thời điểm đăng ký kết hôn, đã được đăng ký khai sinh không có thông tin về người cha, vợ chồng có văn bản thừa nhận là con chung thì không phải làm thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con mà làm thủ tục bổ sung hộ tịch để ghi bổ sung thông tin về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và giấy khai sinh của người con. Việc hướng dẫn đăng ký nhận cha, mẹ, con, bổ sung hộ tịch trong một số trường hợp đặc biệt tại Điều 13 Thông tư số 15/2015/TT-BTP cần được hiểu là có điều kiện áp dụng. Điều kiện để áp dụng trường hợp đặc biệt này là các mối quan hệ cha ruột - con, mẹ ruột - con tương đối rõ ràng, chỉ là cần các thủ tục pháp lý để hợp pháp hóa mối quan hệ đó. Việc loại bỏ các loại giấy tờ chứng minh được quy định trong Điều 11 Thông tư số 15/2015/TT-BTP nhằm giảm thiểu các thủ tục hành chính không cần thiết cho các trường hợp đặc biệt trên, tránh rườm rà, gây phiền hà cho người dân.

Trong trường hợp này, việc công chức tư pháp - hộ tịch xã X áp dụng khoản 2 Điều 13 Thông tư số 15/2015/TT-BTP để giải quyết cho tình huống nảy sinh giữa chị A, anh D, anh B và cháu C là chưa hiểu được dụng ý của nhà làm luật.

Mặt khác, Điều 13 Thông tư số 15/2015/TT-BTP quy định cơ quan đăng ký hộ tịch có trách nhiệm giải thích rõ về trách nhiệm, hệ quả pháp lý của việc lập văn bản thừa nhận con chung tại khoản 2 Điều 13 nếu không đúng sự thật và khi có cơ sở xác định các thông tin cung cấp cho cơ quan đăng ký hộ tịch không đúng sự thật, cơ quan đăng ký hộ tịch có quyền từ chối giải quyết. Như vậy, trong tình huống nêu trên, việc chị A và anh D có văn bản thừa nhận cháu C là con chung (được lưu trong hồ sơ) là không đúng sự thật. Trong trường hợp này, công chức tư pháp - hộ tịch xã X có quyền từ chối giải quyết bổ sung hộ tịch để ghi bổ sung thông tin về người cha (anh D) trong Sổ đăng ký khai sinh và giấy khai sinh của người con (cháu C).

Như vậy, mỗi quan điểm nêu trên đều có cơ sở thuyết phục. Quan điểm thứ nhất phù hợp với tinh thần của khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Mặt khác, quan điểm này cũng thể hiện yếu tố nhân văn, bảo vệ quyền lợi của trẻ em. Còn quan điểm thứ hai cũng có những lập luận xác đáng, bởi sẽ hạn chế được những trường hợp nhận cha, mẹ, con tùy tiện dẫn đến những tranh chấp phát sinh có thể sẽ phải giải quyết sau này.

Với các quan điểm nêu trên, theo tác giả thì quan điểm thứ hai thuyết phục hơn. Một vấn đề cần lưu ý, theo quy định tại khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng và Điều 44 Luật Hộ tịch năm 2014 về thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con cũng quy định, người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng minh quan hệ cha con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Trường hợp đăng ký nhận cha, mẹ, con giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài hoặc giữa người nước ngoài với nhau thì người nước ngoài phải nộp thêm bản sao hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay hộ chiếu để chứng minh về nhân thân. Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 không quy định bất cứ điều kiện nào trong thủ tục nhận cha, mẹ, con, còn Luật Hộ tịch năm 2014 thì có quy định các loại giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác. Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình ban hành ngày 19/6/2014 và có hiệu lực ngày 01/01/2015, còn Luật Hộ tịch ban hành ngày 20/11/2014 và có hiệu lực ngày 01/01/2016, như vậy, trong tình huống mà có sự không thống nhất, chồng chéo giữa hai luật trên thì sẽ áp dụng Luật Hộ tịch năm 2014. Theo đó, để cụ thể hóa Điều 44 Luật Hộ tịch năm 2014, Điều 11 Thông tư số 15/2015/TT-BTP đã quy định chi tiết các loại giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác và Điều 13 Thông tư số 15/2015/TT-BTP chỉ quy định trong trường hợp đặc biệt. Nhưng hiểu thế nào là “trường hợp đặc biệt” thì Thông tư số 15/2015/TT-BTP lại chưa giải thích rõ ràng. Vì vậy, để có sự áp dụng thống nhất pháp luật, tác giả kiến nghị quy định rõ đối tượng nào được nhận cha, mẹ, con và thế nào là “trường hợp đặc biệt” trong quy định tại Điều 13 Thông tư số 15/2015/TT-BTP.

Cao Thị Quỳnh

Trường Chính trị tỉnh Sơn La

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Giải trừ trách nhiệm của công chức thuế, tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp

Luật số 56/2024/QH15 bổ sung quy định về trách nhiệm của công chức thuế theo hướng giải trừ trách nhiệm cho công chức thuế khi có gian lận trong kê khai, cung cấp thông tin tạo thuận lợi giải quyết hoàn thuế cho doanh nghiệp chân chính.

Cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tại thành phố Hải Phòng

Hải Phòng là địa phương luôn nỗ lực, tích cực thực hiện cải cách thủ tục hành chính, với mục tiêu tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, trong đó phải kể đến lĩnh vực cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Điều này được thể hiện rõ nét qua sự quyết tâm, chủ động, sáng tạo trong triển khai, thực hiện các văn bản, quy định nhằm cải cách thủ tục hành chính cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân trong bối cảnh chuyển đổi số và những khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết bàn về những vấn đề cơ bản của quyền riêng tư và sự cần thiết phải bảo vệ quyền riêng tư; phân tích các vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân theo pháp luật quốc tế, từ đó đúc kết và đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này tại Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số.

Bảo đảm quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số trong bối cảnh chuyển đổi số

Bài viết nghiên cứu về những vấn đề đặt ra đối với việc bảo đảm quyền văn hóa của người dân tộc thiếu số ở nước ta hiện nay trong bối cảnh chuyển đổi số.

Xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

Bài viết đề cập đến vấn đề xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp trong sạch, vững mạnh, liêm chính, chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Nâng cao hiệu quả công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân ở các cơ sở giam giữ

Nâng cao hiệu quả công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân ở các cơ sở giam giữ

Thi đua chấp hành án phạt tù tại các cơ sở giam giữ là một trong những yêu cầu phạm nhân phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Kết quả của việc thi đua chấp hành án phạt tù là cơ sở để thực hiện các chính sách của Nhà nước đối với phạm nhân theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Công tác xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân thuộc về cơ sở giam giữ phạm nhân theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành cho thấy một số khó khăn, vướng mắc cần có giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đẩy mạnh hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đẩy mạnh hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Nhận thức rõ tầm quan trọng của dữ liệu lý lịch tư pháp trong tiến trình xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, công dân số, phục vụ tốt nhất cho người dân và doanh nghiệp thông qua việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua môi trường điện tử theo tinh thần của Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án số 06/CP của Chính phủ), được sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh, Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum đã ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch số 64/KH-STP ngày 18/7/2024 về cao điểm nhập dữ liệu thông tin lý lịch tư pháp vào Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp dùng chung của Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum.

Công tác tư pháp 06 tháng cuối năm 2024: Tập trung hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành Tư pháp

Trong 06 tháng đầu năm 2024, Bộ, Ngành Tư pháp đã bám sát sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, sự điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, đoàn kết, trách nhiệm, tập trung triển khai toàn diện, kịp thời các nhiệm vụ được giao đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Theo đó, để hoàn thành tốt kế hoạch công tác năm 2024, Bộ, Ngành Tư pháp đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của 06 tháng cuối năm, trong đó xác định tiếp tục đổi mới, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tiếp tục đầu tư nguồn lực, cơ sở hạ tầng để đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong Ngành Tư pháp... góp phần vào công cuộc phát triển đất nước trong tình hình mới.
Một số ý kiến góp ý đối với Đề cương chi tiết Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006

Một số ý kiến góp ý đối với Đề cương chi tiết Luật Luật sư thay thế Luật Luật sư năm 2006

Một trong các nhiệm vụ và giải pháp được xác định trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã xác định: “Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật...”.
Hoạt động đấu giá tài sản tiếp tục được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa một cách mạnh mẽ

Hoạt động đấu giá tài sản tiếp tục được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa một cách mạnh mẽ

Ngày 27/6/2024, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản nhằm góp phần phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; tiếp tục nâng cao tính chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa của đội ngũ đấu giá viên, tổ chức đấu giá tài sản; khắc phục những hạn chế, bất cập, bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động đấu giá tài sản; nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước về đấu giá tài sản. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025.
Nỗ lực số hóa dữ liệu hộ tịch - Phấn đấu đẩy nhanh tiến độ, “về đích” sớm*

Nỗ lực số hóa dữ liệu hộ tịch - Phấn đấu đẩy nhanh tiến độ, “về đích” sớm*

Số hóa dữ liệu hộ tịch được xác định là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của Ngành Tư pháp năm 2024. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, các cơ quan đăng ký hộ tịch trên cả nước đang lưu trữ trên 08 triệu sổ đăng ký hộ tịch các loại, tương ứng với hơn 100 triệu dữ liệu hộ tịch, việc hoàn thành số hóa các dữ liệu hộ tịch vừa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ - xác định năm 2024 là năm số hóa dữ liệu, vừa bảo đảm cung cấp thông tin đầu vào, chia sẻ, đồng bộ dữ liệu dân cư, thúc đẩy việc triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 06).
Tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại tỉnh Quảng Trị

Tăng cường sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại tỉnh Quảng Trị

Tổ chức, triển khai thực hiện đưa Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở vào cuộc sống là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng hiện nay góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng gắn với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”.

Đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp

Bài viết này khái quát về đơn giản hóa thủ tục hành chính và phân tích thực trạng về thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp, từ đó, đưa ra một số đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa các quy định, thủ tục hành chính liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp trong thời gian tới.
Cấp phiếu lý lịch tư pháp qua ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế - Kết quả bước đầu và vấn đề cần hoàn thiện

Cấp phiếu lý lịch tư pháp qua ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế - Kết quả bước đầu và vấn đề cần hoàn thiện

Bài viết nêu lên những kết quả bước đầu của công tác thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế; từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID trong thời gian tới.
Dấu ấn vị Bộ trưởng qua gần 8 năm “dẫn dắt” ngành Tư pháp

Dấu ấn vị Bộ trưởng qua gần 8 năm “dẫn dắt” ngành Tư pháp

Gần 8 năm trên cương vị Bộ trưởng Tư pháp, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng Lê Thành Long luôn là vị Bộ trưởng của hành động, nắm chắc lý luận, sâu sát thực tiễn, truyền lửa đam mê tới mỗi công chức, viên chức, người lao động trong toàn Ngành.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm