Qua đánh giá tổng kết 08 năm thi hành Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 cho thấy, chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý (TGPL) nhiều lúc còn chưa được bảo đảm, chưa chuyên nghiệp, do đó chưa được xã hội đánh giá cao. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do trình độ, năng lực của người thực hiện TGPL chưa cao. Nhận diện được vấn đề đó, Bộ Tư pháp đã xác định nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL là một trong những mục tiêu quan trọng, xuyên suốt từ khi triển khai Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025 cho đến khi xây dựng và thông qua Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. Đặc biệt, trong bối cảnh triển khai nguyên tắc tranh tụng theo Hiến pháp năm 2013, các luật, bộ luật tố tụng và Chiến lược cải cách tư pháp, thì yêu cầu đặt ra phải nâng cao trình độ cho người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL là rất cần thiết. Để đạt được mục tiêu này, Luật Trợ giúp pháp năm 2017 đã có các quy định chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện TGPL theo hướng chuyên nghiệp hóa, xã hội hóa nhằm cung cấp dịch vụ pháp lý kịp thời, có chất lượng cho người được TGPL. Theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, người thực hiện TGPL bao gồm 04 nhóm chủ thể như sau: (i) Trợ giúp viên pháp lý (TGVPL), (ii) Luật sư (LS) thực hiện TGPL; (iii) Tư vấn viên pháp luật làm việc tại tổ chức tham gia TGPL; (iv) Cộng tác viên (CTV) TGPL.
1. Tiêu chuẩn, điều kiện người thực hiện trợ giúp pháp lý
1.1. Người thực hiện trợ giúp pháp lý là trợ giúp viên pháp lý
Người thực hiện TGPL được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 17 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. Đây là chức danh được kế thừa từ Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và đã được quy định đồng bộ trong các bộ luật, luật về tố tụng. Triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, các bộ luật, luật tố tụng đều đã ghi nhận vai trò của TGVPL và có một số cơ chế bảo đảm quyền được TGPL, đặc biệt là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tại khoản 2 Điều 72, khoản 2 Điều 83 và khoản 2 Điều 84 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đều đã ghi nhận vị trí pháp lý của TGVPL là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự thuộc diện được TGPL.
Với quan điểm nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL và phát triển công tác này theo hướng chuyên nghiệp hóa, Luật đã chuẩn hóa, nâng cao tiêu chuẩn đội ngũ TGVPL, cụ thể:
Điều 19 của Luật quy định về tiêu chuẩn TGVPL, theo đó, công dân Việt Nam là viên chức của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước có đủ tiêu chuẩn sau đây có thể trở thành TGVPL: (i) Có phẩm chất đạo đức tốt; (ii) Có trình độ cử nhân luật trở lên; (iii) Đã được đào tạo nghề LS hoặc được miễn đào tạo nghề LS; đã qua thời gian tập sự hành nghề LS hoặc tập sự TGPL; (iv) Có sức khỏe bảo đảm thực hiện TGPL; (v) Không đang trong thời gian bị xử lý kỷ luật. Các tiêu chuẩn này được quy định trên cơ sở kế thừa tinh thần quy định tiêu chuẩn của TGVPL tại Điều 21 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và có sửa đổi, bổ sung trên cơ sở nâng cao điều kiện, tiêu chuẩn của đội ngũ này. Cụ thể, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã sửa đổi tiêu chuẩn là “có bằng cử nhân luật trở lên” nhằm tạo điều kiện cho những người là thạc sỹ, tiến sỹ luật nhưng không có bằng cử nhân luật làm TGVPL, thu hút được những người có kiến thức pháp luật tham gia vào công tác này. Ngoài ra còn bổ sung 01 điểm mới về điều kiện, tiêu chuẩn để trở thành TGVPL, đó là “đã được đào tạo nghề luật sư hoặc được miễn đào tạo nghề luật sư; đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự trợ giúp pháp lý” bởi để nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL thì trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm của người thực hiện TGPL là điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất. Xét về tính chất nghề nghiệp, hoạt động của TGVPL tương đồng với hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của LS, cần có thời gian thực hành, vận dụng kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp để có thể đảm nhận tốt nhiệm vụ khi được chính thức cấp thẻ TGVPL.
Đồng thời, với tư cách là một dịch vụ pháp lý tương đương thì việc tập sự TGPL được quy định tương tự như tập sự hành nghề LS. Điều 20 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định về tập sự TGPL để TGVPL thực hành, áp dụng các kiến thức pháp luật và kỹ năng được đào tạo. Theo đó, viên chức của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước có giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề LS hoặc được miễn đào tạo nghề LS theo quy định của Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012) được tập sự TGPL tại Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước. Thời gian tập sự TGPL là 12 tháng. Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước phân công TGVPL hướng dẫn người tập sự TGPL và xác nhận việc tập sự TGPL. TGVPL hướng dẫn tập sự phải có ít nhất 03 năm kinh nghiệm làm TGVPL. Tại cùng một thời điểm, 01 TGVPL không được hướng dẫn tập sự quá 02 người. Quy định về thời gian tập sự và số năm kinh nghiệm của TGVPL hướng dẫn tập sự tương tự như LS bởi hoạt động TGPL có tính tương đồng với hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của LS. Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định tại cùng một thời điểm, 01 LS không được hướng dẫn tập sự quá 03 người. Tuy nhiên, TGVPL là viên chức nhà nước nên việc quy định 01 TGVPL không được hướng dẫn tập sự quá 02 người tại cùng một thời điểm là phù hợp với pháp luật về viên chức.
Người tập sự TGPL được TGVPL hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp nhưng không được đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL tại phiên tòa; không được ký văn bản tư vấn pháp luật. Người tập sự TGPL được cùng với TGVPL hướng dẫn gặp gỡ người được TGPL và đương sự khác trong vụ việc TGPL khi được người đó đồng ý; giúp TGVPL nghiên cứu hồ sơ vụ việc, thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ việc và các hoạt động nghề nghiệp khác. TGVPL hướng dẫn tập sự giám sát và chịu trách nhiệm về các hoạt động của người tập sự TGPL nêu trên. Người thuộc trường hợp được miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề LS theo quy định của Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012) thì được miễn, giảm thời gian tập sự TGPL. Các quy định chi tiết việc tập sự, kiểm tra kết quả tập sự TGPL và mẫu giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự TGPL được quy định từ Điều 23 đến Điều 32 tại Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 15/11/2017 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động trợ giúp pháp lý (Thông tư số 08/2017/TT-BTP).
Ngoài ra, để tạo điều kiện cho những người đã được bổ nhiệm làm TGVPL theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định của Luật, khoản 1 Điều 48 quy định chuyển tiếp như sau: “...Sau 05 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, người được bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý không có giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật thì bị thu hồi thẻ trợ giúp viên pháp lý”.
Một trong những quan điểm sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý lần này là ưu tiên tập trung cho hoạt động TGPL thông qua hình thức tham gia tố tụng nhằm trợ giúp cho người được TGPL bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình tố tụng. Với tinh thần đó, tất cả các TGVPL đều phải tham gia thực hiện các vụ việc, tham gia tố tụng và kết quả thực hiện sẽ là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của TGVPL. Vì vậy, nếu trong 02 năm liên tục mà TGVPL không thực hiện vụ việc tham gia tố tụng, trừ trường hợp do nguyên nhân khách quan thì cũng phản ánh năng lực của TGVPL không còn phù hợp với công việc và không cần tiếp tục làm TGVPL. Đây là một trong những chế tài đưa ra nhằm yêu cầu đội ngũ TGVPL cần tập trung vào việc nâng cao trình độ, kỹ năng để tham gia tố tụng. Đây là một công việc khó, đòi hỏi tính chuyên môn, kỹ năng và bản lĩnh nghề nghiệp cao, phản ánh đúng bản chất “nghề” của hoạt động TGPL.
1.2. Người thực hiện trợ giúp pháp lý là luật sư
Điểm b khoản 1 Điều 17 quy định LS thực hiện TGPL theo hai phương thức: (i) Theo hợp đồng với Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và (ii) Theo phân công của tổ chức tham gia TGPL nhằm tiếp tục ghi nhận sự tham gia hiệu quả của đội ngũ LS vào công tác TGPL.
- Luật sư thực hiện TGPL theo hợp đồng với Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước: Đây là sự kế thừa từ Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 quy định LS tham gia TGPL với tư cách cá nhân là CTV. Tuy nhiên, với mục tiêu xuyên suốt toàn bộ các quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 là nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL hướng đến bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL, dịch vụ TGPL phải được thực hiện bởi những chủ thể có đủ năng lực, trình độ và kỹ năng hành nghề. Do đó, ngoài việc căn cứ vào nhu cầu TGPL, nguồn lực thực hiện TGPL tại địa phương, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 còn quy định các điều kiện của LS để Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước lựa chọn, ký hợp đồng như: (i) Không đang trong thời gian thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề LS; (ii) Không bị cấm hành nghề hoặc bị hạn chế hoạt động nghề nghiệp theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền; (iii) Không đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự và (iv) Được sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức hành nghề LS nơi LS đang làm việc hoặc cơ quan, tổ chức mà LS ký kết hợp đồng lao động. LS ký kết hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước được hưởng thù lao và chi phí thực hiện vụ việc TGPL theo quy định.
- Luật sư thực hiện TGPL theo phân công của tổ chức tham gia TGPL: Luật sư có thể thực hiện TGPL theo phân công của tổ chức đăng ký tham gia TGPL hoặc tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL. Như vậy, so với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, chức danh này có sự kế thừa quy định người thực hiện TGPL là LS làm việc tại các tổ chức đăng ký tham gia TGPL, họ thực hiện TGPL tự nguyện, miễn phí cho người được TGPL và không được Nhà nước hỗ trợ kinh phí để thực hiện vụ việc TGPL. Còn khi LS làm việc tại tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL thì tổ chức đó được Nhà nước hỗ trợ kinh phí thực hiện vụ việc TGPL, đây là điểm mới so với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 nhằm khuyến khích các tổ chức xã hội tham gia TGPL.
Tính đến tháng 6/2018, trên cả nước có 4.028 tổ chức hành nghề LS (trong đó, có 2.367 văn phòng LS, 1.661 công ty luật), 12.569 LS với nhiều lĩnh vực hoạt động, nhiều sở trường và các trình độ khác nhau, do đó tạo ra sự đa dạng trong việc cung cấp dịch vụ TGPL. Đội ngũ này sẽ bổ sung cho lực lượng người thực hiện TGPL của Nhà nước, nhất là trong bối cảnh biên chế, nguồn lực nhà nước còn hạn chế như hiện nay thì việc huy động đội ngũ người có kinh nghiệm, có trình độ, hoạt động đa dạng như LS là rất cần thiết, đặc biệt là những lĩnh vực đòi hỏi kỹ năng cung cấp dịch vụ TGPL cho đối tượng đặc thù như người bị HIV, người khuyết tật... Tuy nhiên, cần khẳng định là, không thể giao tất cả công việc thực hiện TGPL cho đội ngũ LS thực hiện, bởi việc tham gia TGPL không phải là công việc chính của họ, thù lao chi trả cũng còn mức độ hoặc đăng ký TGPL tự nguyện, thỏa thuận không phải là bắt buộc sẽ không tạo sự ổn định, đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng xa, nơi có rất ít LS sẽ không bảo đảm quyền được TGPL cho người dân. Ở nước ta, đội ngũ LS cũng phân bổ không đồng đều, chủ yếu tập trung tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và thực tế cho thấy rằng, ở những địa phương vùng núi, điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, thì đội ngũ LS ít phát triển, nơi đó đội ngũ người thực hiện TGPL của Nhà nước phát triển và giữ vai trò nòng cốt, có nơi thực hiện gần như hoàn toàn số lượng vụ việc tham gia tố tụng (như Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên...).
Để hướng dẫn về cách thức lựa chọn, ký kết hợp đồng thực hiện TGPL giữa Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước với LS, CTV TGPL, Thông tư số 08/2017/TT-BTP đã có những quy định chi tiết về vấn đề hợp đồng thực hiện TGPL, cụ thể, quy trình lựa chọn gồm 04 bước: (i) Xác định số lượng LS; tổ chức ký hợp đồng; (ii) Thành lập tổ đánh giá; (iii) Thông báo lựa chọn; (iv) Đánh giá hồ sơ và ký hợp đồng.
1.3. Người thực hiện trợ giúp pháp lý là tư vấn viên pháp luật
Điểm c khoản 1 Điều 17 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định về tư vấn viên pháp luật. Chức danh này kế thừa từ Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, song, để nâng cao chất lượng TGPL, Luật quy định tư vấn viên pháp luật phải có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên và phải làm việc tại tổ chức tham gia TGPL (bao gồm tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL và tổ chức đăng ký tham gia TGPL). Nếu họ là thành viên tổ chức đăng ký tham gia TGPL thì họ sẽ thực hiện TGPL tự nguyện, miễn phí cho người được TGPL và không được Nhà nước hỗ trợ kinh phí để thực hiện vụ việc TGPL. Khi tư vấn viên pháp luật làm việc tại tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL thì tổ chức đó được Nhà nước hỗ trợ kinh phí thực hiện vụ việc TGPL.
1.4. Người thực hiện trợ giúp pháp lý là cộng tác viên trợ giúp pháp lý
Đây là đối tượng được bàn luận, cân nhắc nhiều trong quá trình xây dựng Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. Xuất phát từ thực trạng đội ngũ CTV TGPL theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 còn nhiều vấn đề bất cập, hạn chế như: Trình độ CTV không đồng đều, kể cả những người không có trình độ đại học luật như già làng, trưởng bản... cũng được thực hiện TGPL. Số lượng CTV tuy đông nhưng tỷ lệ tham gia thực hiện TGPL trên thực tế còn hạn chế, nhiều người đã được cấp thẻ CTV, được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng TGPL nhưng không thực hiện TGPL. Sau 09 năm thi hành Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 (từ năm 2007 - 2015), phần lớn các vụ việc tư vấn do CTV thực hiện là giải đáp vướng mắc pháp luật đơn giản, được thực hiện chủ yếu thông qua TGPL lưu động. Do đó, có nhiều ý kiến đề nghị không quy định CTV là người thực hiện TGPL. Tuy nhiên, sau khi cân nhắc đến các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, cùng với định hướng tập trung vào vụ việc TGPL và nâng cao chất lượng dịch vụ, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã tiếp tục quy định điều kiện, tiêu chuẩn của người có thể làm CTV theo hướng nâng cao trên cơ sở chọn lọc những người có trình độ chuyên môn về pháp luật, có kinh nghiệm và có thời gian để bảo đảm tham gia công tác TGPL một cách thực chất, hiệu quả. Tại Điều 24 của Luật quy định về CTV, theo đó, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, căn cứ nhu cầu TGPL của người dân và điều kiện thực tế tại địa phương, Giám đốc Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước đề nghị Giám đốc Sở Tư pháp cấp thẻ CTV. Về điều kiện: Những người đã nghỉ hưu, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe, có nguyện vọng thực hiện TGPL có thể trở thành CTV (bao gồm: TGVPL; thẩm phán, thẩm tra viên Ngành Tòa án; kiểm sát viên, kiểm tra viên Ngành Kiểm sát; điều tra viên; chấp hành viên, thẩm tra viên thi hành án dân sự; chuyên viên làm công tác pháp luật tại các cơ quan nhà nước). Đây là những người có kiến thức pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn, không còn làm việc tại các cơ quan, đơn vị nên chủ động về thời gian trong việc thực hiện TGPL. Đối với CTV không thực hiện TGPL trong thời gian 02 năm liên tục, trừ trường hợp do nguyên nhân khách quan, Giám đốc Trung tâm đề nghị Giám đốc Sở Tư pháp thu hồi thẻ CTV. CTV ký kết hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước được hưởng thù lao và chi phí thực hiện vụ việc TGPL theo quy định (khoản 3 Điều 18 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017). Thủ tục cấp thẻ CTV được quy định tại Điều 16 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý (Nghị định số 144/2017/NĐ-CP) và tại Điều 8 Thông tư số 08/2017/TT-BTP cũng đã quy định trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được cấp thẻ, CTV có trách nhiệm đến Trung tâm để ký hợp đồng thực hiện TGPL, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
2. Quyền và nghĩa vụ của người thực hiện trợ giúp pháp lý
Quyền và nghĩa vụ của người thực hiện TGPL được Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định tại Điều 18. Theo đó, người thực hiện TGPL có 08 quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Thực hiện TGPL: Điều này khẳng định người thực hiện TGPL cần phải thực hiện chức trách, nhiệm vụ chính của mình. Đây là nghĩa vụ của người thực hiện TGPL góp phần đưa công tác TGPL đi đúng trọng tâm, bản chất của TGPL, không chồng lấn sang các dịch vụ pháp lý khác.
- Được bảo đảm thực hiện TGPL độc lập, không bị đe dọa, cản trở, sách nhiễu hoặc can thiệp trái pháp luật. Quy định này nhằm bảo đảm cho hoạt động TGPL của người thực hiện TGPL được thuận lợi, đồng thời thực hiện nguyên tắc độc lập trong quá trình thực hiện các hoạt động tác nghiệp đã quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
- Từ chối hoặc không tiếp tục thực hiện TGPL theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và theo pháp luật về tố tụng để bảo đảm vụ việc TGPL được thực hiện một cách chất lượng, tránh những yếu tố ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL.
- Được bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ TGPL, nhằm bảo đảm người thực hiện TGPL được cập nhật kiến thức pháp luật nói chung cũng như kiến thức, kỹ năng về TGPL nói riêng.
- Bảo đảm chất lượng vụ việc TGPL: Quy định này nhằm tăng cường trách nhiệm của người thực hiện TGPL trong việc thực hiện TGPL, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL.
- Tuân thủ nguyên tắc hoạt động TGPL: Nguyên tắc hoạt động TGPL đã được quy định đầy đủ ở Điều 3 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 bao gồm: (i) Tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp TGPL; (ii) Kịp thời, độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan; (iii) Bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL; (iv) Không thu tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác từ người được TGPL.
- Nghiêm chỉnh chấp hành nội quy nơi thực hiện TGPL bao gồm: Nội quy tại tổ chức thực hiện TGPL, cơ quan tiến hành tố tụng hoặc tại các cơ quan, tổ chức khác mà người thực hiện TGPL cung cấp dịch vụ tại đó.
- Bồi thường hoặc hoàn trả một khoản tiền cho tổ chức thực hiện TGPL đã trả cho người bị thiệt hại do lỗi của mình gây ra khi thực hiện TGPL theo quy định của pháp luật. Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của người thực hiện TGPL trong quá trình thực hiện TGPL nói chung, đồng thời phù hợp với pháp luật về viên chức.
Ngoài những quyền nói chung của người thực hiện TGPL đã được quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 nêu trên, TGVPL còn có các quyền và nghĩa vụ sau: (i) Tham gia các khóa tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ TGPL, đây là nghĩa vụ cũng là một giải pháp để nâng cao kiến thức, kỹ năng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ TGVPL nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL; (ii) Thực hiện các nhiệm vụ khác được phân công và (iii) Được hưởng chế độ, chính sách theo quy định. Tại Điều 4 Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý đã quy định thời gian tham gia tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng bắt buộc của TGVPL tối thiểu là 08 giờ/năm.
Tại Điều 11 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP đã quy định các chế độ, chính sách đối với TGVPL, cụ thể: (i) TGVPL có các chức danh nghề nghiệp viên chức theo quy định của pháp luật; (ii) TGVPL được hưởng phụ cấp trách nhiệm theo nghề bằng 25% mức lương hiện hưởng cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp vượt khung (nếu có); (iii) TGVPL được cấp trang phục riêng theo tiêu chuẩn, niên hạn.
Tóm lại, với các quy định về người thực hiện TGPL như đã nêu ở trên, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã huy động những người thực hiện TGPL có trình độ và kinh nghiệm. Qua đó, vừa thể hiện xu hướng đa dạng hóa chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý, vừa có tính kế thừa luật hiện hành, đặc biệt là bảo đảm nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL để tạo sự tin tưởng từ người được TGPL đối với người thực hiện TGPL và góp phần nâng cao được vị trí, vai trò của công tác TGPL trong xã hội. Ngoài ra, nhằm cung cấp thông tin cho người được TGPL biết và thực hiện quyền lựa chọn người thực hiện TGPL, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 còn quy định Sở Tư pháp công bố danh sách người thực hiện TGPL tại địa phương, đăng tải trên trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp và gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
1. Tiêu chuẩn, điều kiện người thực hiện trợ giúp pháp lý
1.1. Người thực hiện trợ giúp pháp lý là trợ giúp viên pháp lý
Người thực hiện TGPL được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 17 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. Đây là chức danh được kế thừa từ Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và đã được quy định đồng bộ trong các bộ luật, luật về tố tụng. Triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, các bộ luật, luật tố tụng đều đã ghi nhận vai trò của TGVPL và có một số cơ chế bảo đảm quyền được TGPL, đặc biệt là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tại khoản 2 Điều 72, khoản 2 Điều 83 và khoản 2 Điều 84 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đều đã ghi nhận vị trí pháp lý của TGVPL là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự thuộc diện được TGPL.
Với quan điểm nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL và phát triển công tác này theo hướng chuyên nghiệp hóa, Luật đã chuẩn hóa, nâng cao tiêu chuẩn đội ngũ TGVPL, cụ thể:
Điều 19 của Luật quy định về tiêu chuẩn TGVPL, theo đó, công dân Việt Nam là viên chức của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước có đủ tiêu chuẩn sau đây có thể trở thành TGVPL: (i) Có phẩm chất đạo đức tốt; (ii) Có trình độ cử nhân luật trở lên; (iii) Đã được đào tạo nghề LS hoặc được miễn đào tạo nghề LS; đã qua thời gian tập sự hành nghề LS hoặc tập sự TGPL; (iv) Có sức khỏe bảo đảm thực hiện TGPL; (v) Không đang trong thời gian bị xử lý kỷ luật. Các tiêu chuẩn này được quy định trên cơ sở kế thừa tinh thần quy định tiêu chuẩn của TGVPL tại Điều 21 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và có sửa đổi, bổ sung trên cơ sở nâng cao điều kiện, tiêu chuẩn của đội ngũ này. Cụ thể, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã sửa đổi tiêu chuẩn là “có bằng cử nhân luật trở lên” nhằm tạo điều kiện cho những người là thạc sỹ, tiến sỹ luật nhưng không có bằng cử nhân luật làm TGVPL, thu hút được những người có kiến thức pháp luật tham gia vào công tác này. Ngoài ra còn bổ sung 01 điểm mới về điều kiện, tiêu chuẩn để trở thành TGVPL, đó là “đã được đào tạo nghề luật sư hoặc được miễn đào tạo nghề luật sư; đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự trợ giúp pháp lý” bởi để nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL thì trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm của người thực hiện TGPL là điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất. Xét về tính chất nghề nghiệp, hoạt động của TGVPL tương đồng với hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của LS, cần có thời gian thực hành, vận dụng kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp để có thể đảm nhận tốt nhiệm vụ khi được chính thức cấp thẻ TGVPL.
Đồng thời, với tư cách là một dịch vụ pháp lý tương đương thì việc tập sự TGPL được quy định tương tự như tập sự hành nghề LS. Điều 20 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định về tập sự TGPL để TGVPL thực hành, áp dụng các kiến thức pháp luật và kỹ năng được đào tạo. Theo đó, viên chức của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước có giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề LS hoặc được miễn đào tạo nghề LS theo quy định của Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012) được tập sự TGPL tại Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước. Thời gian tập sự TGPL là 12 tháng. Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước phân công TGVPL hướng dẫn người tập sự TGPL và xác nhận việc tập sự TGPL. TGVPL hướng dẫn tập sự phải có ít nhất 03 năm kinh nghiệm làm TGVPL. Tại cùng một thời điểm, 01 TGVPL không được hướng dẫn tập sự quá 02 người. Quy định về thời gian tập sự và số năm kinh nghiệm của TGVPL hướng dẫn tập sự tương tự như LS bởi hoạt động TGPL có tính tương đồng với hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của LS. Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định tại cùng một thời điểm, 01 LS không được hướng dẫn tập sự quá 03 người. Tuy nhiên, TGVPL là viên chức nhà nước nên việc quy định 01 TGVPL không được hướng dẫn tập sự quá 02 người tại cùng một thời điểm là phù hợp với pháp luật về viên chức.
Người tập sự TGPL được TGVPL hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp nhưng không được đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL tại phiên tòa; không được ký văn bản tư vấn pháp luật. Người tập sự TGPL được cùng với TGVPL hướng dẫn gặp gỡ người được TGPL và đương sự khác trong vụ việc TGPL khi được người đó đồng ý; giúp TGVPL nghiên cứu hồ sơ vụ việc, thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ việc và các hoạt động nghề nghiệp khác. TGVPL hướng dẫn tập sự giám sát và chịu trách nhiệm về các hoạt động của người tập sự TGPL nêu trên. Người thuộc trường hợp được miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề LS theo quy định của Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012) thì được miễn, giảm thời gian tập sự TGPL. Các quy định chi tiết việc tập sự, kiểm tra kết quả tập sự TGPL và mẫu giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự TGPL được quy định từ Điều 23 đến Điều 32 tại Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 15/11/2017 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động trợ giúp pháp lý (Thông tư số 08/2017/TT-BTP).
Ngoài ra, để tạo điều kiện cho những người đã được bổ nhiệm làm TGVPL theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định của Luật, khoản 1 Điều 48 quy định chuyển tiếp như sau: “...Sau 05 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, người được bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý không có giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật thì bị thu hồi thẻ trợ giúp viên pháp lý”.
Một trong những quan điểm sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý lần này là ưu tiên tập trung cho hoạt động TGPL thông qua hình thức tham gia tố tụng nhằm trợ giúp cho người được TGPL bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình tố tụng. Với tinh thần đó, tất cả các TGVPL đều phải tham gia thực hiện các vụ việc, tham gia tố tụng và kết quả thực hiện sẽ là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của TGVPL. Vì vậy, nếu trong 02 năm liên tục mà TGVPL không thực hiện vụ việc tham gia tố tụng, trừ trường hợp do nguyên nhân khách quan thì cũng phản ánh năng lực của TGVPL không còn phù hợp với công việc và không cần tiếp tục làm TGVPL. Đây là một trong những chế tài đưa ra nhằm yêu cầu đội ngũ TGVPL cần tập trung vào việc nâng cao trình độ, kỹ năng để tham gia tố tụng. Đây là một công việc khó, đòi hỏi tính chuyên môn, kỹ năng và bản lĩnh nghề nghiệp cao, phản ánh đúng bản chất “nghề” của hoạt động TGPL.
1.2. Người thực hiện trợ giúp pháp lý là luật sư
Điểm b khoản 1 Điều 17 quy định LS thực hiện TGPL theo hai phương thức: (i) Theo hợp đồng với Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và (ii) Theo phân công của tổ chức tham gia TGPL nhằm tiếp tục ghi nhận sự tham gia hiệu quả của đội ngũ LS vào công tác TGPL.
- Luật sư thực hiện TGPL theo hợp đồng với Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước: Đây là sự kế thừa từ Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 quy định LS tham gia TGPL với tư cách cá nhân là CTV. Tuy nhiên, với mục tiêu xuyên suốt toàn bộ các quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 là nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL hướng đến bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL, dịch vụ TGPL phải được thực hiện bởi những chủ thể có đủ năng lực, trình độ và kỹ năng hành nghề. Do đó, ngoài việc căn cứ vào nhu cầu TGPL, nguồn lực thực hiện TGPL tại địa phương, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 còn quy định các điều kiện của LS để Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước lựa chọn, ký hợp đồng như: (i) Không đang trong thời gian thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề LS; (ii) Không bị cấm hành nghề hoặc bị hạn chế hoạt động nghề nghiệp theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền; (iii) Không đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự và (iv) Được sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức hành nghề LS nơi LS đang làm việc hoặc cơ quan, tổ chức mà LS ký kết hợp đồng lao động. LS ký kết hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước được hưởng thù lao và chi phí thực hiện vụ việc TGPL theo quy định.
- Luật sư thực hiện TGPL theo phân công của tổ chức tham gia TGPL: Luật sư có thể thực hiện TGPL theo phân công của tổ chức đăng ký tham gia TGPL hoặc tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL. Như vậy, so với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, chức danh này có sự kế thừa quy định người thực hiện TGPL là LS làm việc tại các tổ chức đăng ký tham gia TGPL, họ thực hiện TGPL tự nguyện, miễn phí cho người được TGPL và không được Nhà nước hỗ trợ kinh phí để thực hiện vụ việc TGPL. Còn khi LS làm việc tại tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL thì tổ chức đó được Nhà nước hỗ trợ kinh phí thực hiện vụ việc TGPL, đây là điểm mới so với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 nhằm khuyến khích các tổ chức xã hội tham gia TGPL.
Tính đến tháng 6/2018, trên cả nước có 4.028 tổ chức hành nghề LS (trong đó, có 2.367 văn phòng LS, 1.661 công ty luật), 12.569 LS với nhiều lĩnh vực hoạt động, nhiều sở trường và các trình độ khác nhau, do đó tạo ra sự đa dạng trong việc cung cấp dịch vụ TGPL. Đội ngũ này sẽ bổ sung cho lực lượng người thực hiện TGPL của Nhà nước, nhất là trong bối cảnh biên chế, nguồn lực nhà nước còn hạn chế như hiện nay thì việc huy động đội ngũ người có kinh nghiệm, có trình độ, hoạt động đa dạng như LS là rất cần thiết, đặc biệt là những lĩnh vực đòi hỏi kỹ năng cung cấp dịch vụ TGPL cho đối tượng đặc thù như người bị HIV, người khuyết tật... Tuy nhiên, cần khẳng định là, không thể giao tất cả công việc thực hiện TGPL cho đội ngũ LS thực hiện, bởi việc tham gia TGPL không phải là công việc chính của họ, thù lao chi trả cũng còn mức độ hoặc đăng ký TGPL tự nguyện, thỏa thuận không phải là bắt buộc sẽ không tạo sự ổn định, đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng xa, nơi có rất ít LS sẽ không bảo đảm quyền được TGPL cho người dân. Ở nước ta, đội ngũ LS cũng phân bổ không đồng đều, chủ yếu tập trung tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và thực tế cho thấy rằng, ở những địa phương vùng núi, điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, thì đội ngũ LS ít phát triển, nơi đó đội ngũ người thực hiện TGPL của Nhà nước phát triển và giữ vai trò nòng cốt, có nơi thực hiện gần như hoàn toàn số lượng vụ việc tham gia tố tụng (như Lai Châu, Lào Cai, Điện Biên...).
Để hướng dẫn về cách thức lựa chọn, ký kết hợp đồng thực hiện TGPL giữa Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước với LS, CTV TGPL, Thông tư số 08/2017/TT-BTP đã có những quy định chi tiết về vấn đề hợp đồng thực hiện TGPL, cụ thể, quy trình lựa chọn gồm 04 bước: (i) Xác định số lượng LS; tổ chức ký hợp đồng; (ii) Thành lập tổ đánh giá; (iii) Thông báo lựa chọn; (iv) Đánh giá hồ sơ và ký hợp đồng.
1.3. Người thực hiện trợ giúp pháp lý là tư vấn viên pháp luật
Điểm c khoản 1 Điều 17 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định về tư vấn viên pháp luật. Chức danh này kế thừa từ Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, song, để nâng cao chất lượng TGPL, Luật quy định tư vấn viên pháp luật phải có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên và phải làm việc tại tổ chức tham gia TGPL (bao gồm tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL và tổ chức đăng ký tham gia TGPL). Nếu họ là thành viên tổ chức đăng ký tham gia TGPL thì họ sẽ thực hiện TGPL tự nguyện, miễn phí cho người được TGPL và không được Nhà nước hỗ trợ kinh phí để thực hiện vụ việc TGPL. Khi tư vấn viên pháp luật làm việc tại tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL thì tổ chức đó được Nhà nước hỗ trợ kinh phí thực hiện vụ việc TGPL.
1.4. Người thực hiện trợ giúp pháp lý là cộng tác viên trợ giúp pháp lý
Đây là đối tượng được bàn luận, cân nhắc nhiều trong quá trình xây dựng Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. Xuất phát từ thực trạng đội ngũ CTV TGPL theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 còn nhiều vấn đề bất cập, hạn chế như: Trình độ CTV không đồng đều, kể cả những người không có trình độ đại học luật như già làng, trưởng bản... cũng được thực hiện TGPL. Số lượng CTV tuy đông nhưng tỷ lệ tham gia thực hiện TGPL trên thực tế còn hạn chế, nhiều người đã được cấp thẻ CTV, được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng TGPL nhưng không thực hiện TGPL. Sau 09 năm thi hành Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 (từ năm 2007 - 2015), phần lớn các vụ việc tư vấn do CTV thực hiện là giải đáp vướng mắc pháp luật đơn giản, được thực hiện chủ yếu thông qua TGPL lưu động. Do đó, có nhiều ý kiến đề nghị không quy định CTV là người thực hiện TGPL. Tuy nhiên, sau khi cân nhắc đến các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, cùng với định hướng tập trung vào vụ việc TGPL và nâng cao chất lượng dịch vụ, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã tiếp tục quy định điều kiện, tiêu chuẩn của người có thể làm CTV theo hướng nâng cao trên cơ sở chọn lọc những người có trình độ chuyên môn về pháp luật, có kinh nghiệm và có thời gian để bảo đảm tham gia công tác TGPL một cách thực chất, hiệu quả. Tại Điều 24 của Luật quy định về CTV, theo đó, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, căn cứ nhu cầu TGPL của người dân và điều kiện thực tế tại địa phương, Giám đốc Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước đề nghị Giám đốc Sở Tư pháp cấp thẻ CTV. Về điều kiện: Những người đã nghỉ hưu, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe, có nguyện vọng thực hiện TGPL có thể trở thành CTV (bao gồm: TGVPL; thẩm phán, thẩm tra viên Ngành Tòa án; kiểm sát viên, kiểm tra viên Ngành Kiểm sát; điều tra viên; chấp hành viên, thẩm tra viên thi hành án dân sự; chuyên viên làm công tác pháp luật tại các cơ quan nhà nước). Đây là những người có kiến thức pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn, không còn làm việc tại các cơ quan, đơn vị nên chủ động về thời gian trong việc thực hiện TGPL. Đối với CTV không thực hiện TGPL trong thời gian 02 năm liên tục, trừ trường hợp do nguyên nhân khách quan, Giám đốc Trung tâm đề nghị Giám đốc Sở Tư pháp thu hồi thẻ CTV. CTV ký kết hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước được hưởng thù lao và chi phí thực hiện vụ việc TGPL theo quy định (khoản 3 Điều 18 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017). Thủ tục cấp thẻ CTV được quy định tại Điều 16 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý (Nghị định số 144/2017/NĐ-CP) và tại Điều 8 Thông tư số 08/2017/TT-BTP cũng đã quy định trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được cấp thẻ, CTV có trách nhiệm đến Trung tâm để ký hợp đồng thực hiện TGPL, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
2. Quyền và nghĩa vụ của người thực hiện trợ giúp pháp lý
Quyền và nghĩa vụ của người thực hiện TGPL được Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định tại Điều 18. Theo đó, người thực hiện TGPL có 08 quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Thực hiện TGPL: Điều này khẳng định người thực hiện TGPL cần phải thực hiện chức trách, nhiệm vụ chính của mình. Đây là nghĩa vụ của người thực hiện TGPL góp phần đưa công tác TGPL đi đúng trọng tâm, bản chất của TGPL, không chồng lấn sang các dịch vụ pháp lý khác.
- Được bảo đảm thực hiện TGPL độc lập, không bị đe dọa, cản trở, sách nhiễu hoặc can thiệp trái pháp luật. Quy định này nhằm bảo đảm cho hoạt động TGPL của người thực hiện TGPL được thuận lợi, đồng thời thực hiện nguyên tắc độc lập trong quá trình thực hiện các hoạt động tác nghiệp đã quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
- Từ chối hoặc không tiếp tục thực hiện TGPL theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và theo pháp luật về tố tụng để bảo đảm vụ việc TGPL được thực hiện một cách chất lượng, tránh những yếu tố ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL.
- Được bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ TGPL, nhằm bảo đảm người thực hiện TGPL được cập nhật kiến thức pháp luật nói chung cũng như kiến thức, kỹ năng về TGPL nói riêng.
- Bảo đảm chất lượng vụ việc TGPL: Quy định này nhằm tăng cường trách nhiệm của người thực hiện TGPL trong việc thực hiện TGPL, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL.
- Tuân thủ nguyên tắc hoạt động TGPL: Nguyên tắc hoạt động TGPL đã được quy định đầy đủ ở Điều 3 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 bao gồm: (i) Tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp TGPL; (ii) Kịp thời, độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan; (iii) Bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL; (iv) Không thu tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác từ người được TGPL.
- Nghiêm chỉnh chấp hành nội quy nơi thực hiện TGPL bao gồm: Nội quy tại tổ chức thực hiện TGPL, cơ quan tiến hành tố tụng hoặc tại các cơ quan, tổ chức khác mà người thực hiện TGPL cung cấp dịch vụ tại đó.
- Bồi thường hoặc hoàn trả một khoản tiền cho tổ chức thực hiện TGPL đã trả cho người bị thiệt hại do lỗi của mình gây ra khi thực hiện TGPL theo quy định của pháp luật. Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của người thực hiện TGPL trong quá trình thực hiện TGPL nói chung, đồng thời phù hợp với pháp luật về viên chức.
Ngoài những quyền nói chung của người thực hiện TGPL đã được quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 nêu trên, TGVPL còn có các quyền và nghĩa vụ sau: (i) Tham gia các khóa tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ TGPL, đây là nghĩa vụ cũng là một giải pháp để nâng cao kiến thức, kỹ năng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ TGVPL nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL; (ii) Thực hiện các nhiệm vụ khác được phân công và (iii) Được hưởng chế độ, chính sách theo quy định. Tại Điều 4 Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý đã quy định thời gian tham gia tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng bắt buộc của TGVPL tối thiểu là 08 giờ/năm.
Tại Điều 11 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP đã quy định các chế độ, chính sách đối với TGVPL, cụ thể: (i) TGVPL có các chức danh nghề nghiệp viên chức theo quy định của pháp luật; (ii) TGVPL được hưởng phụ cấp trách nhiệm theo nghề bằng 25% mức lương hiện hưởng cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp vượt khung (nếu có); (iii) TGVPL được cấp trang phục riêng theo tiêu chuẩn, niên hạn.
Tóm lại, với các quy định về người thực hiện TGPL như đã nêu ở trên, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã huy động những người thực hiện TGPL có trình độ và kinh nghiệm. Qua đó, vừa thể hiện xu hướng đa dạng hóa chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý, vừa có tính kế thừa luật hiện hành, đặc biệt là bảo đảm nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL để tạo sự tin tưởng từ người được TGPL đối với người thực hiện TGPL và góp phần nâng cao được vị trí, vai trò của công tác TGPL trong xã hội. Ngoài ra, nhằm cung cấp thông tin cho người được TGPL biết và thực hiện quyền lựa chọn người thực hiện TGPL, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 còn quy định Sở Tư pháp công bố danh sách người thực hiện TGPL tại địa phương, đăng tải trên trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp và gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
ThS. Nguyễn Thị Thanh Trang
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp