Thứ sáu 06/06/2025 23:44
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Nâng cao hiệu quả thi hành án - Góc nhìn từ phán quyết của Tòa án

Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành án, trong đó, nội dung bản án, quyết định của Tòa án có một vai trò đặc biệt quan trọng. Một phán quyết đúng, chính xác, rõ ràng là điều kiện vô cùng quan trọng để việc thi hành phán quyết được thuận lợi. Tuy nhiên, trong thực tiễn, vấn đề này vẫn còn nhiều bất cập. Bài viết dưới đây phân tích một số vấn đề còn tồn tại trong việc ban hành các bản án, quyết định của Tòa án và đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm hạn chế tình trạng này, góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành án.


Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định: “Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành” là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Chiến lược cải cách tư pháp. Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 2013 cũng đã quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” (Điều 106). Theo đó, mọi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành.

Theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 và Luật Cạnh tranh năm 2018 (Luật Thi hành án dân sự) những bản án, quyết định được thi hành theo Luật Thi hành án dân sự bao gồm: (i) Bản án, quyết định quy định tại Điều 1 Luật Luật Thi hành án dân sự đã có hiệu lực pháp luật: Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, hội đồng giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau 15 ngày kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại Tòa án[1]; phán quyết, quyết định của trọng tài thương mại; quyết định của Tòa án giải quyết phá sản; (ii) Những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị: Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Theo đó, phạm vi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành theo Luật Thi hành án dân sự là rất lớn. Tuy nhiên, trong thực tiễn, chất lượng các bản án, quyết định của Tòa án ban hành vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành án, có thể kể đến một số bất cập cụ thể như sau:

Một là, nội dung bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành

Theo thống kê của Tổng cục Thi hành án dân sự[2], năm 2020, toàn quốc có 392 bản án, quyết định[3] Tòa án tuyên không rõ, khó thi hành, tương ứng với 421 quyết định thi hành án với số tiền phải thi hành là 2.839 tỷ 595 triệu 144 nghìn đồng, bao gồm tiền và tài sản đã quy ra tiền. Có thể thấy, số lượng bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành hiện nay là rất lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tổ chức thi hành án.

Trong thực tiễn, nội dung bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ, khó thi hành rất đa dạng, cụ thể như: Tuyên không rõ về đối tượng thực hiện nghĩa vụ hoặc nội dung nghĩa vụ phải thực hiện; không xác định rõ vị trí tài sản được chia trong khối tài sản thừa kế chung là quyền sử dụng đất; không tuyên rõ nghĩa vụ cụ thể của cá nhân, tổ chức với từng hợp đồng tín dụng trong những vụ việc tranh chấp về nhiều hợp đồng tín dụng với nhiều tài sản bảo đảm; không xử lý tài sản trên đất có từ trước khi có xét xử; không tuyên biện pháp xử lý đối với công trình xây dựng trên đất phát sinh sau khi thế chấp và trước khi xét xử; tuyên giao quyền sử dụng đất nhưng diện tích đất, ranh giới thửa đất phải giao không đúng thực tế; tuyên chưa rõ hoặc có thiếu sót về phần xử lý vật chứng, tài sản[4]... Đối với các bản án này, cơ quan thi hành án dân sự gặp rất nhiều khó khăn khi tổ chức thi hành án, mặt khác còn gây kéo dài vụ việc, lãng phí thời gian, chi phí của Nhà nước và nhân dân.

Hai là, về cách tuyên giá trị trong các bản án, quyết định của Tòa án

Trong thực tiễn, có rất nhiều trường hợp bản án tuyên giá trị phải thi hành án lẻ tới hàng đồng. Ví dụ: Bản án tuyên: Công ty TNHH in HV phải chịu án phí 49.233.316,2 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về kinh doanh thương mại có giá ngạch.

Trong thực tiễn, việc tuyên án lẻ đồng như trên là rất phổ biến. Đây là một bất cập trong thực tiễn tổ chức thi hành án. Bởi vì quyết định thi hành án phải ghi rõ số tiền chính xác theo bản án, quyết định của Tòa án nhưng khi tổ chức thi hành thì không thể có số tiền lẻ đồng để thu, nộp ngân sách cũng như chi trả cho đương sự như theo quyết định thi hành án và bản án. Trong khi đó, trong các đơn vị tiền tệ của Việt Nam hiện nay, loại tiền mặt có giá trị thấp nhất được lưu hành là tiền có mệnh giá 100 đồng[5], dẫn đến việc ghi biên lai thu tiền và nộp tiền thi hành án trên thực tế là chưa thật sự hợp lý. Do đó, cần thống nhất liên ngành Tòa án, thi hành án về việc làm tròn số tiền phải thi hành để việc tuyên án chính xác, phù hợp và thuận lợi cho việc tổ chức thi hành án.

Ba là, cách xác định khoản lãi suất trong bản án chưa cụ thể, rõ ràng

Theo quy định về lãi suất cho vay tại Điều 466, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng thì tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng. Khoản 4 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN nêu trên quy định: “Khi đến hạn thanh toán mà khách hàng không trả hoặc trả không đầy đủ nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay theo thỏa thuận thì khách hàng phải trả lãi tiền vay như sau: a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất cho vay đã thỏa thuận tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; b) Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi theo quy định tại điểm a khoản này, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả; c) Trường hợp khoản nợ vay bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả lãi trên dư nợ gốc bị quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất áp dụng không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn”.

Đối với các khoản vay của tổ chức tín dụng, ngân hàng thì cách tính lãi suất và thời điểm tính lãi suất sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật được tính theo nội dung quyết định của Tòa án và thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi tổ chức thi hành án, chấp hành viên phải nghiên cứu và căn cứ vào hợp đồng tín dụng để xác định mức lãi suất này.

Ví dụ: Bản án tuyên anh A và chị B phải có nghĩa vụ liên đới trả nợ cho Ngân hàng Z toàn bộ nợ gốc và nợ lãi là 1.687.102.000 đồng. Tiếp tục duy trì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số MCA:0011 được ký kết giữa Ngân hàng Z với vợ chồng anh A, chị B. Kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm vụ án, các bị đơn là anh A, chị B còn phải chịu lãi suất theo thỏa thuận tại hợp đồng cấp tín dụng số MCA:0011 và Khế ước nhận nợ số 02 ngày 22/3/2012 được ký giữa Ngân hàng Z với anh chị A, B đối với số nợ gốc chưa thanh toán cho đến khi anh chị A, B thanh toán hết nợ gốc cho ngân hàng.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, khi xem xét hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ thì chấp hành viên rất khó xác định khoản lãi suất này, bởi vì, những hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ của ngân hàng thường có rất nhiều điều khoản phức tạp với ngôn ngữ chuyên ngành rất khó hiểu. Mặt khác, trong hợp đồng tín dụng lại có quy định về rất nhiều loại lãi như lãi suất vay quá hạn, lãi phạt, lãi suất chiết khấu… và mức lãi khác nhau trên số tiền vay gốc, khiến chấp hành viên không biết phải tính theo loại lãi nào.

Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về việc tính lãi suất đối với trường hợp chậm thanh toán nghĩa vụ. Theo đó, việc tuyên lãi suất của Tòa án được thực hiện theo hai phương thức: (i) Theo thỏa thuận của đương sự: Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; (ii) Nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tại thời điểm trả nợ. Dẫn chiếu đến quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015: Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

Hiện nay, trong rất nhiều bản án, quyết định của Tòa án có tuyên nội dung: “Người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án”. Xem xét quy định trên, có thể thấy, việc tuyên áp dụng mức lãi suất theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 là rất chung chung, chưa cụ thể, dẫn đến khó khăn cho cơ quan thi hành án dân sự khi xác định rõ mức lãi suất cần phải thi hành.

Một trong những khó khăn khác là khi tổ chức thi hành khoản lãi suất chậm thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước. Trong thực tiễn, có rất nhiều bản án, quyết định tuyên lãi suất chậm thi hành án đối với các khoản án phí, tiền phạt… thu nộp ngân sách nhà nước. Có những khoản phải thi hành có giá trị không lớn (dưới 5 triệu đồng) nhưng cũng có lãi suất chậm thi hành án kèm theo. Tuy nhiên, việc thi hành khoản lãi suất này cũng gặp nhiều khó khăn khi nhiều trường hợp người phải thi hành án không có điều kiện kinh tế, không có tiền để nộp, chấp hành viên đôn đốc thu được khoản tiền gốc đã là rất nan giải. Do đó, đối với các khoản phải thi hành án khoản thu nộp ngân sách nhà nước có giá trị không lớn (có thể xác định mức dưới 5 triệu đồng) thì đề nghị pháp luật có quy định rõ về việc không tuyên lãi suất chậm thi hành án.

Bốn là, về thời hạn giải thích bản án

Điều 179 Luật Thi hành án dân sự quy định về trách nhiệm của cơ quan ra bản án, quyết định trong thi hành án. Theo đó, cơ quan ra bản án, quyết định có trách nhiệm bảo đảm bản án, quyết định đã tuyên chính xác, rõ ràng, cụ thể, phù hợp với thực tế. Có văn bản giải thích những nội dung mà bản án, quyết định tuyên chưa rõ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của đương sự hoặc của cơ quan thi hành án dân sự. Trường hợp vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.

Theo quy định tại điểm d, điểm đ khoản 1 Điều 23 Luật Thi hành án dân sự, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có quyền yêu cầu cơ quan đã ra bản án, quyết định giải thích bằng văn bản những điểm chưa rõ hoặc không phù hợp với thực tế trong bản án, quyết định đó để thi hành; kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc giải thích bản án, quyết định tuyên không rõ vẫn còn nhiều hạn chế.

Theo thống kê của Tổng cục Thi hành án dân sự, năm 2020[6], các cơ quan thi hành án dân sự đã ban hành 385 văn bản đề nghị Tòa án có thẩm quyền xử lý theo quy định, trong đó có 313 văn bản yêu cầu đính chính, giải thích và 72 văn bản kiến nghị xem xét kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Kết quả, các cơ quan thi hành án dân sự đã nhận được 104 văn bản phúc đáp, trong đó có 61 văn bản phúc đáp đầy đủ nội dung theo đề nghị, 43 văn bản giải thích nhưng chưa đầy đủ, nội dung chưa rõ, nên cơ quan thi hành án dân sự vẫn chưa thi hành được... Số còn lại là 281 văn bản, cơ quan thi hành án dân sự chưa nhận được trả lời, trong đó có 136 văn bản đang trong thời hạn trả lời, 145 văn bản đã hết thời hạn trả lời.

Mặc dù Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành chỉ thị về việc giải quyết các bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành, trong đó, đưa ra nhiều giải pháp về việc rà soát, giải quyết dứt điểm các kiến nghị của cơ quan thi hành án cho rằng bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ, khó thi hành và phân công trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong việc chỉ đạo và chịu trách nhiệm về việc rà soát, xem xét và xử lý, khắc phục đối với các bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành… Tuy nhiên, phân tích số lượng các bản án chưa được giải thích, chưa trả lời cho các cơ quan thi hành án dân sự thì thấy rằng vẫn cần phải quan tâm nhiều hơn nữa đến công tác này.

Năm là, về cách thức sửa chữa, bổ sung bản án

Theo quy định tại Điều 268, Điều 486 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì: “1. Sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai. 2. Trường hợp cần sửa chữa, bổ sung bản án theo quy định tại khoản 1 Điều này thì thẩm phán phối hợp với các hội thẩm nhân dân là thành viên hội đồng xét xử đã tuyên bản án đó phải ra quyết định sửa chữa, bổ sung bản án và gửi ngay cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp và cơ quan thi hành án dân sự nếu bản án đã được gửi cho cơ quan thi hành án dân sự…” (Điều 268).

Theo Điều 9 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự thì: Trường hợp phát hiện bản án, quyết định của Tòa án có những điểm chưa rõ gây khó khăn cho việc thi hành án hoặc phát hiện lỗi chính tả, số liệu có nhầm lẫn hoặc tính toán sai thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có văn bản yêu cầu Tòa án đã ra bản án, quyết định giải thích những điểm chưa rõ, sửa chữa lỗi chính tả hoặc số liệu nhầm lẫn. Tòa án có trách nhiệm trả lời về những vấn đề được nêu trong văn bản yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự. Việc giải thích bằng văn bản những điểm chưa rõ, sửa chữa lỗi chính tả hoặc sai sót về số liệu được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng và Điều 179 Luật Thi hành án dân sự. Điều 179 Luật Thi hành án dân sự quy định: Tòa án có văn bản giải thích những nội dung mà bản án, quyết định tuyên chưa rõ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của đương sự hoặc của cơ quan thi hành án dân sự.

Thực tiễn, khi sửa chữa, bổ sung bản án, Tòa án thường chỉ ban hành công văn về việc sửa chữa, bổ sung bản án mà không ban hành quyết định sửa chữa, bổ sung bản án. Do đó, cần quy định thống nhất về hình thức ban hành văn bản sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định để áp dụng, thực hiện.

Một phán quyết đúng, chính xác, rõ ràng là điều kiện vô cùng quan trọng để việc thi hành phán quyết được thuận lợi[7]. Vì vậy, một trong những yêu cầu đặc biệt quan trọng là Tòa án phải nâng cao chất lượng của phán quyết. Để làm được điều này đòi hỏi một giải pháp đồng bộ trong toàn bộ quá trình tố tụng và trách nhiệm của các cơ quan liên quan. Bên cạnh các quy định về đính chính, sửa đổi, bổ sung bản án, hủy bản án, cần có các quy định cụ thể về trách nhiệm cá nhân của thẩm phán ra bản án, quyết định không rõ, không thống nhất, khó thi hành để hạn chế tình trạng này. Đồng thời, cần có cơ chế phát huy vai trò chủ động của cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên trong việc thực hiện quyền yêu cầu Tòa án giải thích các bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành.

ThS. Hoàng Thị Thanh Hoa
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, TP. Hà Nội


[1] Điểm này được sửa đổi bởi điểm c khoản 1 Điều 116 Luật Cạnh tranh năm 2018.

[2] Công văn số 4996/BTP-TCTHADS ngày 02/12/2020 của Bộ Tư pháp về việc rà soát, thống kê, lập danh sách bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ, khó thi hành 12 tháng năm 2020.

[3] So với 12 tháng năm 2019 tăng 139 bản án, quyết định (12 tháng năm 2019 có 253 bản án, quyết định).

[4] Công văn số 4996/BTP-TCTHADS ngày 02/12/2020 của Bộ Tư pháp; tlđd..

[6] Công văn số 4996/BTP-TCTHADS ngày 02/12/2020 của Bộ Tư pháp, tlđd.

[7] Tưởng Duy Lượng, phát biểu tại hội thảo Thực tiễn và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam ngày 21, 22/5/2017 tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm