Thứ bảy 21/06/2025 06:20
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật giám sát tài chính - ngân sách của hội đồng nhân dân

Ngân sách nhà nước Việt Nam gồm: Ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Ngân sách địa phương bao gồm: Ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách cấp tỉnh)

1. Quy định pháp luật về giám sát tài chính - ngân sách của Hội đồng nhân dân
Ngân sách nhà nước Việt Nam gồm: Ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Ngân sách địa phương bao gồm: Ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách cấp tỉnh). Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách cấp huyện) và ngân sách cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).
Theo quy định tại Điều 30 Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 thì Hội đồng nhân dân (HĐND) có quyền quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định các chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương; quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong thời gian cần thiết; giám sát việc thực hiện ngân sách đã quyết định1. Riêng đối với HĐND cấp tỉnh, ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên còn được quyền quyết định thu, chi, lệ phí, phụ thu và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Giám sát là một hình thức thực hiện quyền lực nhà nước, mà trong bộ máy nhà nước chỉ có Quốc hội và HĐND mới có chức năng giám sát việc thực hiện pháp luật. Chức năng giám sát của HĐND được cụ thể hóa qua các hoạt động giám sát của cơ quan dân cử và đại biểu dân cử.
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 đã quy định thẩm quyền giám sát của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND khá cụ thể và khi xét thấy cần thiết, HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND tiến hành giám sát các hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác ở địa phương.
Với đặc điểm việc thu, chi ngân sách nhà nước có sự tham gia của rất nhiều chủ thể khác nhau, cơ quan nhà nước các cấp và thậm chí cả khu vực ngoài nhà nước như các doanh nghiệp thực hiện các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước... Vì vậy, giám sát tài chính - ngân sách nhà nước là vấn đề hệ trọng. Giám sát ngân sách nhà nước là cách tốt nhất để gắn các hoạt động của ngân sách nhà nước với các hoạt động kinh tế - xã hội một cách cụ thể và thực sự nhằm tập trung đầy đủ và kịp thời, đúng chính sách, chế độ các nguồn tài chính quốc gia và phân phối sử dụng chúng công bằng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước2. Bảo đảm ngân sách nhà nước luôn đúng đắn và hợp lý không chỉ bảo đảm phương tiện tài chính cho việc duy trì và phát triển hoạt động của các cấp chính quyền ngân sách từ trung ương đến địa phương mà còn tạo điều kiện phát huy được các lợi thế nhiều mặt của từng vùng, từng địa phương trong cả nước. Tăng cường kỷ luật tài chính, thị trường, nâng cao hiệu quả, giảm chi phí cung cấp hàng hóa/dịch vụ công.
2. Thực trạng thi hành pháp luật về giám sát tài chính - ngân sách của Hội đồng nhân dân hiện nay
Hiện nay, trong thực hiện nhiệm vụ quyết định và giám sát các vấn tài chính - ngân sách vẫn còn nhiều khó khăn. HĐND đã thực hiện tốt hơn, nhưng chưa thật đầy đủ quyền quyết định, giám sát các vấn đề mang tính chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, các vấn đề tài chính, đặc biệt là quyết định dự toán ngân sách nhà nước, quyết định phân bổ ngân sách, giám sát tình hình chấp hành ngân sách và phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương3. Chất lượng quyết định các vấn đề tài chính, dự toán ngân sách nhà nước và quyết toán ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương và giám sát tình hình chấp hành ngân sách chưa cao, chưa hoàn toàn thỏa mãn và chưa đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nhân dân, của cử tri. Cần có sự đổi mới cả về nhận thức, nội dung, cả về phương pháp và bảo đảm đầy đủ các điều kiện để hoạt động thẩm tra, quyết định và giám sát của HĐND về tài chính - ngân sách và chính sách tài khóa thực chất hơn, thực quyền và đúng mức, có tác dụng thực sự.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 và Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 đã quy định HĐND có nhiệm vụ quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, quyết định ngân sách địa phương; đồng thời, thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương, giám sát việc tuân thủ nghị quyết của HĐND, giám sát việc tuân thủ luật pháp nhà nước, trong đó có vấn đề tài chính và ngân sách địa phương.
Quyền hạn của HĐND trong phân bổ dự toán ngân sách cấp mình và mức bổ sung cho ngân sách từng địa phương cấp dưới, phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương và tỷ lệ phần trăm phân chia giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương còn đang ở bước đầu và cơ chế, phương thức để thực hiện các quyền này chưa có được sự đổi mới lớn. Vẫn còn thiếu một số quy định tạo sự độc lập cao hơn của HĐND, hạn chế sự phụ thuộc vào bộ máy của Ủy ban nhân dân (UBND) khi xem xét các vấn đề tài chính. Kiểm toán nhà nước chưa cung cấp dịch vụ kiểm toán phục vụ giám sát tài chính công của HĐND.
Nếu chỉ với số lượng đại biểu chuyên trách mỏng và đội ngũ cán bộ giúp việc còn rất hạn chế về số lượng thì HĐND vẫn chưa thể tự mình thẩm tra, xem xét, đánh giá được đầy đủ nếu không thông qua bộ máy của UBND. Thiếu cơ chế cụ thể cho phép HĐND thường xuyên được yêu cầu và tiếp nhận các thông tin kiểm chứng độc lập đối với những thông tin, số liệu tài chính mà UBND và các cơ quan chuyên môn của UBND báo cáo. Những điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến tính thực chất của các quyết định của HĐND.
Phương thức giám sát tình hình thực thi ngân sách thông qua việc tổ chức các cuộc giám sát của Thường trực và các Ban của HĐND bao gồm cả xem xét báo cáo và kiểm tra thực tế. Nhưng tình trạng nặng về xem xét báo cáo vẫn phổ biến do bộ phận chuyên trách còn mỏng, đại biểu kiêm nhiệm chưa dành được nhiều thời gian cho hoạt động và do thông tin liên quan đến nội dung giám sát chưa đa chiều. Điều này làm cho hiệu quả giám sát chưa cao, thể hiện ở chỗ chưa nhận ra trách nhiệm về chính sách đằng sau các con số về tài chính - ngân sách. Giám sát thực hiện chính sách có mục đích đưa ra các định hướng lâu dài cho cộng đồng, trải qua nhiều nhiệm kỳ của HĐND, vì thế phải cân nhắc ở tầm chiến lược; tránh tình trạng khóa này làm, khóa kia sửa. Hạn chế lớn nhất đối với tầm chiến lược của HĐND chính là cách làm ngân sách mỗi năm ở thế bị động. Đẩy mạnh phân cấp quản lý kinh tế - xã hội và phân cấp quản lý tài chính - ngân sách cho các cấp chính quyền địa phương làm cơ sở để HĐND thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Sự tập trung quá cao vào các cơ quan trung ương trong quản lý và điều hành ngân sách là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém năng động, ỷ lại của các cấp chính quyền địa phương, trong đó có HĐND. Tăng quyền chủ động và trách nhiệm của HĐND cũng sẽ góp phần hạn chế sự chồng chéo, trùng lặp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực ngân sách nhà nước.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giám sát tài chính - ngân sách của Hội đồng nhân dân
Một là, về xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát:
Thường trực HĐND và Ban Kinh tế - Ngân sách (giám sát thuộc lĩnh vực tài chính - ngân sách) sẽ chủ động xây dựng kế hoạch giám sát và tổ chức thực hiện cần tập trung vào vấn đề sau:
(i) Chọn nội dung giám sát: Liên quan đến việc xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát, lựa chọn chủ đề nội dung giám sát là rất quan trọng. Chọn cho “trúng” và cho “đúng” những vấn đề điểm “nóng”, những vấn đề “bức xúc” ở địa phương, ở cơ sở, cần phải tháo gỡ, trong từng thời điểm nhất định, được nhiều cử tri, nhiều người, nhiều cấp, nhiều ngành quan tâm, để sau khi giám sát, như: Việc sử dụng để đầu tư các dự án thuộc kế hoạch đầu tư trung hạn HĐND các cấp định thông qua? Bội chi ngân sách được bù đắp từ nguồn nào?...
(ii) Chọn đối tượng giám sát: Phải mang tính đại diện và bao quát đối với các vấn đề cần giám sát. Qua đó, có thể vừa nhìn nhận sự việc từ một đơn vị cụ thể, đồng thời có thể đánh giá một cách khái quát vấn đề đang giám sát trên diện rộng, nhất là những yếu kém, khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện, từ đó có những kiến nghị sát đúng, phù hợp và có tính khả thi cao.
(iii) Chọn thời điểm giám sát thích hợp: Để có thể thu được khối lượng thông tin nhiều nhất, chính xác nhất, đồng thời không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đơn vị chịu sự giám sát cần tính toán để không bỏ lỡ thời điểm “nóng”, hiệu lực, hiệu quả của đợt giám sát sẽ bị hạn chế. Ví dụ: Muốn nắm thực trạng về quỹ dự trữ tài chính từ các nguồn tăng thu, kết dư ngân sách, bố trí trong dự toán chi ngân sách hàng năm và các nguồn tài chính khác… thì nên tổ chức giám sát vào tháng 8, 9 hàng năm.
Hai là, phát huy vai trò của Ban Kinh tế - Ngân sách của Hội đồng nhân dân:
Ban Kinh tế - Ngân sách với tư cách là cơ quan chủ trì và chủ động phối hợp với các Ban của HĐND có vai trò hết sức quan trọng trong việc giúp và tham mưu cho Thường trực HĐND và HĐND xem xét, quyết định và tổ chức các hoạt động giám sát các vấn đề tài chính - ngân sách. Cần phải có nhận thức đầy đủ và đúng mức về tài chính. Tài chính - ngân sách là sức mạnh của một quốc gia nói chung, của một địa phương nói riêng và là công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong cơ chế quản lý kinh tế của mỗi quốc gia, tài chính luôn luôn là tổng hòa các mối quan hệ kinh tế, là tổng thể các nội dung và giải pháp tài chính - tiền tệ. Tài chính không chỉ có nhiệm vụ nuôi dưỡng, phát triển, khai thác các nguồn lực, thúc đẩy, duy trì và tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, mà còn phải quản lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của đất nước.
Ba là, phát huy mạnh vai trò đại biểu Hội đồng nhân dân vào cả 03 giai đoạn của quy trình ngân sách:
(i) Giai đoạn lập dự toán ngân sách
Đại biểu HĐND cần tiếp cận ngay từ đầu để trao đổi với các cơ quan chức năng, đề đạt những ý kiến của mình và phản ánh ý kiến của cử tri về tài chính - ngân sách để họ cân nhắc khi lập dự toán ngân sách. Tác động vào ngay từ đầu ở khâu này, hiệu quả sẽ rất cao, lại tạo được sự thống nhất với cơ quan chuyên môn trong giai đoạn tiền dự toán, giảm bớt chỉnh sửa về sau. Tuy vậy, để tham gia có hiệu quả, đại biểu HĐND phải nhiệt tình, tâm huyết, phải có kỹ năng vận động, thuyết phục có lý, có tình, ý kiến đưa ra phải rõ ràng, chính xác, có tính khả thi cao mới có thể đạt kết quả tốt.
(ii) Giai đoạn thẩm tra dự toán ngân sách
Sau khi cơ quan tài chính đưa ra dự thảo về dự toán ngân sách, Ban Kinh tế - Ngân sách và các Ban khác của HĐND sẽ tiến hành thẩm tra dự toán. Ở giai đoạn này, với tư cách là một thành viên tham gia các Ban của HĐND thực hiện các cuộc thẩm tra về dự toán ngân sách, cùng với những hiểu biết thu thập được và quá trình chuẩn bị, đại biểu HĐND có thể đóng góp ý kiến, thảo luận, phân tích sâu hơn về dự thảo dự toán ngân sách. Bằng phương pháp này, ý kiến đại biểu HĐND sẽ được Ban Kinh tế - Ngân sách tổng hợp và báo cáo Thường trực HĐND và thể hiện rõ ràng trong báo cáo thẩm tra của Ban trước kỳ họp HĐND. Nếu giai đoạn đầu, người đại biểu đơn phương đề đạt ý kiến của mình để tham gia với cơ quan chuyên môn lập dự toán ngân sách, thì ở giai đoạn 02 này, người đại biểu có thể thảo luận kỹ hơn để làm sáng tỏ hơn những vấn đề ưu tiên chính sách, xác định rõ hơn những địa chỉ cần được phân bổ nguồn lực từ ngân sách địa phương để tạo ra những bước phát triển có tính nhảy vọt và bền vững.
(iii) Giai đoạn thẩm tra tại kỳ họp
Tại kỳ họp của HĐND, sau khi UBND trình dự thảo dự toán ngân sách (đã được điều chỉnh bước đầu với sự tham gia ý kiến trong quá trình giám sát của Ban Kinh tế - Ngân sách hoặc của Thường trực HĐND), người đại biểu HĐND có cơ hội tốt nhất để phát biểu, tranh luận để cùng tập thể HĐND lựa chọn phương án tối ưu về huy động nguồn thu và phân bổ chi ngân sách địa phương.
(iv) Giai đoạn thẩm tra, phê duyệt báo cáo quyết toán hàng năm
Cơ quan và đại biểu nghiên cứu kỹ dự thảo báo cáo quyết toán do UBND trình, đối chiếu với kế hoạch thu, chi ngân sách đã được HĐND ra nghị quyết phân bổ để phát hiện những phát sinh cần được cơ quan chuyên môn giải trình,
Vì phần lớn đại biểu đều không có chuyên sâu về thu, chi ngân sách nên thường có biểu hiện lúng túng, cho rằng mình là người “ngoại đạo”, chỉ nghiên cứu có chừng mực, quan tâm chủ yếu đến những vấn đề “nổi cộm” trong báo cáo ngân sách mà các đại biểu khác đã nêu. Một số đại biểu lại đi sâu vào những nội dung mang tính tác nghiệp đã có chuẩn mực, chế độ thu, chi rõ ràng nên bị phân tán tư tưởng vào những vấn đề thứ yếu, không dồn hết tâm trí vào việc xem xét kế hoạch phân bổ và thực hiện các chính sách ưu tiên có liên quan đến ngành, địa phương mình mà HĐND đã có quyết định./.

ThS. Lê Ngọc Hưng
Học viện Hành chính Quốc gia



Tài liệu tham khảo:

  1. Hiến pháp năm 2013.
  2. Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam năm 2015.
  3. Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành.
  4. Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
  5. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
  6. Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015.
  7. Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH-CP-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 15/6/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
  8. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Ngân sách nhà nước, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm