Chủ nhật 14/12/2025 04:32
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Nâng cao năng lực sử dụng và bảo vệ quyền quyền của cá nhân trong Hiến pháp năm 2013

Quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận và bảo vệ. Triển khai thi hành Hiến pháp, nhiều luật và các văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với Hiến pháp mới. Tuy nhiên, để quyền con người, quyền công dân được bảo đảm thực thi trên thực tiễn, ngoài hệ thống pháp luật điều chỉnh thì nhận thức, hành động của mỗi cá nhân

Quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận và bảo vệ. Triển khai thi hành Hiến pháp, nhiều luật và các văn bản quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với Hiến pháp mới. Tuy nhiên, để quyền con người, quyền công dân được bảo đảm thực thi trên thực tiễn, ngoài hệ thống pháp luật điều chỉnh thì nhận thức, hành động của mỗi cá nhân có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các quyền của mình đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Theo tác giả bài viết, năng lực sử dụng, bảo vệ quyền của cá nhân là bảo đảm quan trọng để thực hiện quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013. Tác giả cũng nêu lên những thực trạng và một số giải pháp cơ bản nâng cao năng lực sử dụng và bảo vệ quyền của cá nhân.


1. Năng lực sử dụng, bảo vệ quyền của cá nhân là bảo đảm quan trọng thực hiện quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013

Hiến pháp là văn bản quy phạm pháp luật thể hiện tập trung và toàn diện nhất mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân. Nội dung mối quan hệ này là quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của các chủ thể, bao gồm quyền con người (QCN), quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, mà tương ứng với nó là trách nhiệm của Nhà nước, của công dân. Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện rõ sự phát triển trong nhận thức của Đảng và Nhà nước về mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân, về trách nhiệm của Nhà nước và các giá trị khách quan của cá nhân. Chương về QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được nhiều ý kiến đánh giá là “điểm sáng” trong Hiến pháp năm 2013[1]. Tuy nhiên, việc hiện thực hóa những quy định tiến bộ này như thế nào trong thực tiễn còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện khách quan và chủ quan, chẳng hạn như: Quyết tâm chính trị của hệ thống chính trị, nhận thức chung của xã hội, những người trực tiếp tổ chức thực hiện pháp luật, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức…, trong đó, năng lực sử dụng và bảo vệ quyền của cá nhân là một bảo đảm quan trọng.

Dưới góc độ chung nhất, cá nhân vừa là cá thể người được đặc trưng bằng những phẩm chất, năng lực, cá tính riêng, vừa là một thực thể xã hội, cá nhân có sở nguyện độc lập và khả năng tự quyết định, thể hiện thành ý chí, nguyện vọng, lợi ích, giá trị, nhu cầu riêng, đòi hỏi phải được phản ánh và ghi nhận[2]. Từ đó, QCN, quyền công dân (QCD) chính là những giá trị khách quan, phổ biến phản ánh nhu cầu của cá nhân, đó không phải và không thể là những giá trị mà Nhà nước hay các chủ thể khác có thể ban tặng cho cá nhân. Hay nói cách khác, QCN, QCD phải là những giá trị được khẳng định xuất phát từ chính đòi hỏi của cá nhân, đồng thời, là những giá trị được xã hội thừa nhận rộng rãi và được ghi nhận bằng các quy định pháp luật của quốc gia hoặc quốc tế. Vì vậy, nhiều nghiên cứu về QCN, QCD đã chỉ ra rằng: QCN, QCD không phải là những giá trị bất biến; QCN, QCD là những giá trị mang tính nhân loại, nhưng cũng mang tính đặc thù của mỗi quốc gia. Nội dung QCN, QCD phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, xã hội, truyền thống lịch sử văn hóa… của quốc gia trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định.

Nhận thức trên về QCN, QCD cho thấy, việc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm QCN, QCD của Nhà nước phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của cá nhân trong việc sử dụng, bảo vệ QCN, QCD, thể hiện ở kiến thức, kỹ năng, thái độ của cá nhân trong sử dụng và bảo vệ QCN, QCD. Điều này phụ thuộc vào sự trưởng thành của cá nhân về nhân cách độc lập, năng lực làm chủ bản thân và xã hội; phụ thuộc vào nhận thức của cá nhân về QCN, QCD. Đó là:

Trước hết, sự trưởng thành về nhân cách độc lập, năng lực làm chủ bản thân và xã hội, giúp cá nhân ngày càng tự tin trong việc khẳng định nhu cầu, lợi ích, cá tính của mình trước mọi giai cấp, tầng lớp, đòi hỏi xã hội phải phản ánh, ghi nhận. Từ đó, mỗi cá nhân không còn đơn thuần thuộc một giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định, mà đồng thời thuộc các nhóm lợi ích khác nhau. Quan hệ giữa các nhóm lợi ích phát sinh ngày càng phong phú và phức tạp, xen lẫn quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong bối cảnh đó, đường lối của các đảng phái chính trị, pháp luật của Nhà nước không thể chỉ bó hẹp trong lợi ích của một giai cấp, tầng lớp nhất định mà phải hướng đến các giá trị chung của xã hội, các giá trị phổ biến của con người. Đó là cơ sở cho việc hoàn thiện và thực thi pháp luật về QCN, QCD.

Tiếp theo, hiểu biết của cá nhân về các QCN, QCD giúp cá nhân trở nên bình đẳng hơn trong các mối quan hệ xã hội, bao gồm quan hệ giữa các cá nhân; giữa cá nhân với các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức. Hiểu biết về quyền giúp cá nhân tự tin khẳng định giá trị khách quan của mình trước các chủ thể khác, đòi hỏi các chủ thể liên quan phải tôn trọng, đòi hỏi Nhà nước phải bảo vệ khi bị xâm phạm. Nhu cầu sử dụng quyền của cá nhân thúc đẩy các thiết chế xã hội và Nhà nước hoàn thiện cơ chế bảo vệ, bảo đảm, phát huy QCN, QCD. Đồng thời, kiến thức về QCN, QCD là cơ sở giúp cá nhân củng cố kỹ năng, thái độ trong việc sử dụng quyền của mình để không ngừng phát triển và hoàn thiện bản thân. Kỹ năng, thái độ tốt trong sử dụng và bảo vệ quyền của cá nhân sẽ hạn chế những tranh chấp có ảnh hưởng đến việc thực hiện và phát huy QCN, QCD. Đó là điều kiện cho các QCN, QCD đã được Hiến pháp năm 2013 công nhận được thực hiện đầy đủ trong thực tiễn.

2. Thực trạng năng lực sử dụng và bảo vệ quyền của cá nhân

Trong quá trình đổi mới, năng lực sử dụng và bảo vệ quyền của cá nhân không ngừng được củng cố. Một mặt, do pháp luật về QCN, QCD không ngừng được hoàn thiện, trong đó có sự phát triển của thể chế kinh tế thị trường. Mặt khác, trách nhiệm từ phía Nhà nước được nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, đó là trách nhiệm tạo điều kiện cần thiết để cá nhân thực hiện quyền; trách nhiệm khi các QCN, QCD bị vi phạm… Bên cạnh đó, những thay đổi của điều kiện xã hội mới đã tác động mạnh mẽ đến quá trình trưởng thành về năng lực sử dụng và bảo vệ quyền của cá nhân. Từ đó, QCN, QCD trong Hiến pháp ngày càng được tôn trọng, phát huy, bảo vệ và bảo đảm trong thực tiễn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vi phạm QCN, QCD vẫn là hiện tượng xảy ra khá phổ biến ở nước ta trong thời gian qua. Nhiều trường hợp QCN, QCD bị hạn chế một cách tùy tiện bởi chính quy định pháp luật của các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền, chẳng hạn như tình trạng giấy phép “con”, “cháu” trong quản lý kinh doanh[3]; tình trạng nhũng nhiễu trong quản lý hành chính nhà nước, oan sai trong quá trình tố tụng… đã và đang làm ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện QCN, QCD. Đồng thời, hiện tượng cá nhân lạm dụng quyền của mình, gây mất an ninh, an toàn xã hội xâm phạm quyền của nhiều chủ thể khác cũng diễn ra không kém phần phức tạp. Tình trạng này cần được lý giải bởi nhiều nguyên nhân, nhưng sẽ là không đầy đủ, nếu không đánh giá đúng thực trạng năng lực sử dụng và bảo vệ quyền của cá nhân ở Việt Nam hiện nay.

2.1. Đối với sự trưởng thành về nhân cách độc lập, năng lực làm chủ bản thân và xã hội của cá nhân

Trước hết, dưới tác động của yếu tố văn hóa truyền thống dân tộc, với những ảnh hưởng của văn hóa Á Đông. Đó là truyền thống đề cao đạo lý hy sinh cá nhân cho cộng đồng. Chuẩn mực đạo đức này rất được coi trọng vì nó tạo ra sự gắn kết, chia sẻ cộng đồng. Nhưng việc hy sinh cho cộng đồng trong quá khứ đã được đẩy lên đến mức dường như “thủ tiêu” cá nhân.

Thứ hai, dưới chế độ tập trung quan liêu bao cấp, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám, sự phụ thuộc nhân cách của cá nhân tiếp tục được củng cố, tạo nên tâm lý “dựa dẫm” nhà nước, phụ thuộc vào các tập thể lao động như hợp tác xã, nhà máy, xí nghiệp… Mọi cá nhân được định hướng hoàn thiện mình theo những mô hình nhân cách lý tưởng của “con người mới xã hội chủ nghĩa”. Năng lực làm chủ bản thân của cá nhân vì thế mà thiếu cơ hội để trưởng thành.

Thứ ba, dưới tác động của cơ chế kinh tế thị trường đã được hình thành và phát triển trong giai đoạn đổi mới, các quy luật khách quan của thị trường đã tác động đến mỗi cá nhân, đòi hỏi cá nhân phát triển nhân cách độc lập, bình đẳng và cạnh tranh. Kết quả là, sau gần 30 năm đổi mới, nhìn chung cá nhân đã có một sự trưởng thành nhất định về nhân cách độc lập, khả năng tự chủ. Nhưng trong tâm thức chung của mọi người, giá trị con người vẫn dựa vào “sự phô diễn trong cộng đồng”. Trong nhiều trường hợp, xã hội tỏ ra chưa sẵn sàng chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt ở những cá nhân đã và đang có xu hướng vươn lên khẳng định mình. Cá nhân vì trọng cộng đồng mà không ủng hộ những sai biệt cộng đồng, thượng tôn quan quyền và không chủ động sử dụng các quyền cá nhân hợp pháp của mình4.

Thực trạng trên đã tác động lớn đến quá trình hình thành nhân cách độc lập, sự trưởng thành về năng lực làm chủ bản thân và xã hội của cá nhân. Nhu cầu khẳng định những giá trị mà thiếu nó cá nhân không thể tồn tại với tư cách một con người được thể hiện một cách yếu ớt. Thêm vào đó, ảnh hưởng của tư tưởng “thượng tôn quan quyền” khiến cho cá nhân luôn “yếu thế” trong quan hệ với nhà nước. Vì thế, các cơ chế pháp lý ràng buộc trách nhiệm của nhà nước trong tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm, phát huy QCN, QCD chưa được hoàn thiện và thực thi đầy đủ. Cán bộ, công chức còn nặng tư duy “ban phát” trong thực thi công vụ. Đây là một trong những nguyên nhân của vi phạm nhân quyền từ phía nhà nước. Nhà nước còn biểu hiện xem nhẹ yếu tố con người và nguồn nhân lực trong đầu tư phát triển, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân và lợi ích chính đáng của cá nhân[5]. Trong khi, các QCN, QCD đã được ghi nhận khá rộng rãi và liên tục phát triển trong các bản Hiến pháp.

2.2. Đối với nhận thức của cá nhân về quyền con người, quyền công dân để phát triển kiến thức, kỹ năng, thái độ của cá nhân trong việc sử dụng và bảo vệ quyền

Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã và đang có tác động mạnh mẽ đến việc tiếp thu kiến thức, hình thành kỹ năng và thái độ tốt của cá nhân trong sử dụng và bảo vệ quyền. Tuy nhiên, quá trình này cũng chịu những ảnh hưởng không nhỏ từ văn hóa truyền thống và cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Từ chỗ không có quyền, sau khi nước nhà độc lập, các quyền của cá nhân được Nhà nước thừa nhận và đảm bảo bằng các kế hoạch, chỉ tiêu, pháp lệnh của Nhà nước. Khi đó, cá nhân có quyền nhưng ý thức sử dụng và bảo vệ quyền không được củng cố, nuôi dưỡng. Trong điều kiện hiện nay, QCN, QCD không ngừng được hoàn thiện trong Hiến pháp và pháp luật. Nhưng các cá nhân chưa thực sự chủ động trong việc sử dụng và bảo vệ quyền của mình. Từ đó, thiếu chủ động trong tiếp cận các quy định pháp luật về QCN, QCD và nảy sinh hai thái cực trái ngược: (i) Thái độ thờ ơ trước các quyền của mình; (ii) Đòi tuyệt đối hóa các QCN, QCD. Cả hai thái cực này đều ảnh hưởng đến việc thực hiện các QCN, QCD trong thực tiễn, mà lý do là:

- Do kiến thức về QCN, QCD của cá nhân (kể cả cán bộ, công chức) còn hạn chế;

- Tính thiếu phù hợp của cơ chế thực hiện quyền và thiếu hiệu quả của các cơ chế bảo vệ QCN, QCD, đã và đang ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân;

- Sự thiếu tôn trọng QCN, QCD đã được Hiến pháp ghi nhận, từ phía các thiết chế nhà nước còn tồn tại khá phổ biến do thiếu cơ chế kiểm soát;

- Sự thiếu trưởng thành của cá nhân về nhân cách độc lập.

Ngoài ra, sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền về điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, dẫn đến khả năng tiếp cận, sử dụng và bảo vệ quyền có sự khác biệt đáng kể. Các vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, nhìn chung điều kiện kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn, thêm vào đó là các phong tục tập quán lạc hậu ảnh hưởng nặng nề, nhu cầu sử dụng và bảo vệ quyền của cá nhân khá thấp. Nhiều chương trình, mục tiêu quốc gia đã được xây dựng và triển khai như: Chương trình xóa đói, giảm nghèo; chương trình trợ giúp pháp lý cho người nghèo… đã tạo được những điều kiện cần thiết cho cá nhân nâng cao nhận thức và tạo ra các bảo đảm về kinh tế, xã hội trong thực hiện QCN, QCD. Tuy nhiên, do tính hiệu quả chưa cao của các chương trình mà các kết quả đạt được trong thực tế còn rất khiêm tốn, chưa khắc phục được một cách cơ bản những bất bình đẳng trong cơ hội tiếp cận kiến thức và điều kiện thực hiện QCN, QCD giữa các vùng, miền. Từ đó, ảnh hưởng đến kỹ năng, thái độ của cá nhân ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo trong sử dụng và bảo vệ quyền.

3. Giải pháp cơ bản nâng cao năng lực sử dụng và bảo vệ quyền của cá nhân trong Hiến pháp năm 2013

Xuất phát từ thực trạng thực hiện QCN, QCD ở nước ta hiện nay, thiết nghĩ, để các nguyên tắc, quy định tiến bộ về QCN, QCD trong Hiến pháp năm 2013 được thực hiện đầy đủ trong thực tiễn, cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề còn tồn tại. Trong đó, việc khắc phục những hạn chế đã phân tích ở trên và nâng cao năng lực sử dụng, bảo vệ quyền của cá nhân là rất cần thiết, với những giải pháp sau:

Thứ nhất, tạo môi trường để cá nhân có điều kiện hoàn thiện nhân cách độc lập, năng lực làm chủ bản thân và xã hội, hạn chế những tác động tiêu cực của văn hóa truyền thống và tư duy của thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp. Trước tiên, môi trường giáo dục cần tôn trọng sự khác biệt của cá nhân, hình thành ở cá nhân nhận thức về bản thân mình là một chủ thể độc lập với cá tính, năng lực, phẩm chất riêng và trước pháp luật mọi người đều bình đẳng về cơ hội để phát huy tối đa năng lực của bản thân. Từ đó, mỗi cá nhân tự tin tham gia vào đời sống xã hội để khẳng định và hoàn thiện nhân cách độc lập của mình. Nhưng, sống trong xã hội, tự do của mỗi người bị giới hạn bởi tự do của người khác, nên không thể có tự do tuyệt đối, đó là cơ sở để mỗi cá nhân phải ý thức đầy đủ về trách nhiệm xã hội của mình. Nhận thức về quyền và trách nhiệm xã hội cần được coi là hành trang không thể thiếu của mỗi công dân khi bước vào đời sống xã hội. Hành trang này là cơ sở để cá nhân nhận thức đầy đủ hơn về QCN, QCD, những giá trị khách quan gắn liền với sự tồn tại của mỗi cá nhân, mà nếu thiếu nó người ta không thể sống với tính cách là một con người[6]. Khi đó, cá nhân sẽ chủ động trong nhận thức, sử dụng và bảo vệ quyền của mình trước các hành vi vi phạm QCN, QCD từ phía Nhà nước.

Đồng thời, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về QCN, QCD cần được tiến hành một cách thường xuyên, rộng khắp với các đối tượng xã hội, từ cá nhân, đến các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và cán bộ, công chức. Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần được tiến hành bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau, phù hợp với từng loại đối tượng nhằm mang lại hiệu quả cao nhất. Thông qua đó, cá nhân nhận thức được đầy đủ nội dung, cách thức sử dụng, bảo vệ quyền và chủ động, tích cực trong thực hiện, đấu tranh bảo vệ quyền của mình, đồng thời tôn trọng quyền của chủ thể khác.

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về QCN, QCD, cần bảo đảm nguyên tắc QCN, QCD “chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”[7]. Nguyên tắc này củng cố niềm tin của cá nhân về sự tôn trọng của Nhà nước và xã hội với QCN, QCD. Đồng thời, Quốc hội sớm ban hành luật xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp theo Điều 119 Hiến pháp năm 2013, nhằm xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm, phát huy QCN, QCD trong Hiến pháp. Các quy định này một mặt giúp cho các QCN, QCD trong Hiến pháp năm 2013 được thực thi. Mặt khác, thông qua đó, pháp luật khẳng định Nhà nước là chủ thể phải chịu trách nhiệm khi QCN, QCD không được tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và phát huy. Tức là, mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân là quan hệ pháp luật; Nhà nước và cá nhân là những chủ thể bình đẳng về quyền và nghĩa vụ pháp lý. Điều này sẽ có tác động to lớn làm thay đổi căn bản tư tưởng “thượng tôn quan quyền” trong nhân dân. Đồng thời, cán bộ, công chức không thể coi QCN, QCD là những thứ có thể dùng để ban phát, dễ dàng cấm khi không quản lý được hay tùy tiện đặt ra các rào cản khi cần thiết để nhũng nhiễu…

Thứ ba, trước thực trạng sự trưởng thành về nhân cách độc lập, năng lực làm chủ bản thân và xã hội của cá nhân còn nhiều hạn chế, sự phát triển của các thiết chế xã hội mang tính tự nguyện là rất cần thiết. Các thiết chế này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập môi trường để cá nhân củng cố và tự tin hơn trong khẳng định năng lực, cá tính, phẩm chất riêng của mình. Đồng thời, mỗi cá nhân vốn “nhỏ bé” trước Nhà nước, nên sự bình đẳng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân là rất khó hiện thực. Tuy nhiên, sự ra đời của các tổ chức tự nguyện giúp cho cá nhân có nhiều cơ hội bảo vệ quyền của mình thông qua các tổ chức đại diện. Khi đó, vị thế của cá nhân được củng cố, mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân sẽ ngày càng bình đẳng hơn trong thực tiễn. Đây là điều kiện để cá nhân có thể phát huy năng lực, bảo vệ hiệu quả hơn quyền của mình, hạn chế sự vi phạm từ phía nhà nước. Vì vậy, Quốc hội cần sớm thông qua Luật về hội nhằm hiện thực hoá quyền tự do lập hội của cá nhân đã được Hiến pháp ghi nhận.

Đồng thời, phát huy sức mạnh của báo chí và các phương tiện thông tin, khi mà dưới tác động của cuộc cách mạng thông tin và mạng internet, ở mọi nơi, các hệ thống thứ bậc đang bị thách thức từ bên dưới và phải tự biến đổi thành các cấu trúc theo chiều ngang và có tính cộng tác hơn.

Tóm lại, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc bảo đảm thực hiện đầy đủ các QCN, QCD trong Hiến pháp năm 2013 là mục tiêu cao nhất của quá trình đổi mới. Mục tiêu này cần được thực hiện bằng nhiều giải pháp mang tính tổng thể, phù hợp với điều kiện thực tế về kinh tế, xã hội và con người Việt Nam. Trong đó, nâng cao năng lực sử dụng và bảo vệ quyền của cá nhân ở Việt Nam hiện nay cần được xác định là một đảm bảo quan trọng để các QCN, QCD trong Hiến pháp năm 2013 được thực hiện, khi đó, các giải pháp cơ bản trên phải được thực hiện một cách đồng bộ trong thực tiễn.

TS. Trần Thị Thanh Mai
Học viện Chính trị Khu vực I

Tài liệu tham khảo:

[1]. Quang Vũ - Khiếu Tư, Quyền con người - Điểm sáng trong Hiến pháp mới
[2]. Trần Thị Thanh Mai, Cơ chế điều chỉnh pháp luật mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân, Luận án tiến sỹ luật học, tháng 6/2015.

[3]. Báo Vietnamnet online, Giấy phép “con”, “cháu” nhiều gấp mấy lần giấy phép “cha” ngày 19/8/2014.

[4]. Bùi Ngọc Sơn (2009), “Nghĩ lại và tái tạo “mình”“, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (2+3), tr.82.

[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991 - 2011), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.123.

[6]. Viện Thông tin Khoa học xã hội, Trung tâm nghiên cứu quyền con người (1998), Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

[7]. Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Tóm tắt: Trong kinh tế tri thức, tài sản trí tuệ là yếu tố then chốt góp phần quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển tư nhân. Bài viết nghiên cứu một số bất cập về pháp luật sở hữu trí tuệ, từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời, đưa ra giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc khai thác hiệu quả giá trị kinh tế của tài sản trí tuệ, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.

Theo dõi chúng tôi trên: