Thứ hai 08/12/2025 07:04
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Ngân hàng xử lý tài sản thế chấp có đúng không?

Nay ông Nhạ, bà Phương xác định chỉ có bà Phương ký hợp đồng vay tiền của Ngân hàng, ông Nhạ không liên quan. Ngân hàng nhận thế chấp tài sản không đúng quy định của pháp luật, vì tại thời điểm đó 14 lô đất ở xã An Lễ của ông Nhạ, bà Phương chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

1. Nội dung vụ việc

Tháng 8/1995, ông Khúc Thừa Nhạ, bà Nguyễn Thị Mai Phương vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Chi nhánh huyện Q, tỉnh T 90.000.000đ, mục đích là để xây dựng khu nhà nghỉ và bãi gửi xe phục vụ khách thập phương đến tham quan Khu dich tích tại xã An Lễ, huyện Q. Ông Nhạ, bà Phương có thế chấp cho Ngân hàng một số tài sản để đảm bảo khả năng trả nợ gồm nhà và quyền sử dụng đất của ông, bà đang ở tại xã An Bài, huyện Q và quyền sử dụng 14 lô đất, trên đã có móng nhà, bể nước, ao cá... tại xã An Lễ, huyện Q. Do việc kinh doanh bị thua lỗ nên ông, bà đã đi khỏi địa phương làm ăn. Trong thời gian ông Nhạ, bà Phương vắng mặt tại địa phương, Ngân hàng đã tự ý phát mại tài sản của ông, bà để thu hồi nợ.

Nay ông Nhạ, bà Phương xác định chỉ có bà Phương ký hợp đồng vay tiền của Ngân hàng, ông Nhạ không liên quan. Ngân hàng nhận thế chấp tài sản không đúng quy định của pháp luật, vì tại thời điểm đó 14 lô đất ở xã An Lễ của ông Nhạ, bà Phương chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ông Nhạ, bà Phương yêu cầu Tòa án buộc Ngân hàng phải trả lại cho ông, bà toàn bộ tài sản đã phát mại và phải bồi thường thiệt hại cho ông, bà tổng số tiền 1.770.410.000đ. Ông Nhạ, bà Phương đồng ý trả khoản tiền đã vay của Ngân hàng gồm nợ gốc tính đến thời điểm Ngân hàng phát mại tài sản là 86.500.000đ và nợ lãi tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam do bà Nguyễn Thị Sánh Giám đốc Chi nhánh huyện Q trình bày: Ngày 01/8/1995, Ngân hàng cho vợ chồng ông Nhạ, bà Phương vay 90.000.000đ, gồm 70.000.000đ vay ngắn hạn (thời hạn 12 tháng, lãi suất 2,5%/tháng) và 20.000.000đ vay trung hạn (thời hạn 24 tháng, lãi suất 2,2%/tháng). Khi vay tiền, ông Nhạ, bà Phương có thế chấp tài sản gồm 1 căn nhà mái bằng diện tích 23m2 và công trình phụ trên diện tích 110m2 đất tại xã An Bài và quyền sử dụng 14 lô đất có tổng diện tích 2.300m2 ở xã An Lễ; tổng giá trị là 140.000.000đ. Quá trình thực hiện hợp đồng, ông Nhạ, bà Phương đã nhiều lần trả nợ gốc, trả lãi rồi lại vay. Tính đến cuối tháng 5/1997, ông bà nợ Ngân hàng 87.500.000đ nợ gốc, trong đó nợ quá hạn là 80.000.000đ. Ngân hàng đã nhiều lần thông báo về khoản nợ quá hạn nhưng ông Nhạ, bà Phương không thực hiện việc trả nợ. Ngày 30/6/1997, ông Nhạ, bà Phương trả cho Ngân hàng thêm 1.000.000đ, còn nợ 86.500.000đ. Ngày 08/12/1997, bà Phương xin khất nợ và xin tự bán tài sản thế chấp để trả nợ Ngân hàng. Ngày 12/12/1997, Ngân hàng có văn bản đề nghị bà Phương, nếu có người mua tài sản thế chấp, thì Ngân hàng sẽ kết hợp cùng bà Phương bán để thu hồi nợ, nhưng bà Phương không có ý kiến phản hồi.

Tháng 4/1998, do không nhận được thông tin phản hồi từ phía vợ chồng ông Nhạ, bà Phương nên Ngân hàng đã tiến hành việc kê biên, định giá và phát mại tài sản thế chấp của họ. Số nợ được xác định trước khi phát mại tài sản thế chấp là 86.500.000đ nợ gốc và 140.740.000đ nợ lãi. Sau khi phát mại tài sản thế chấp, trừ vào số tiền ông Nhạ, bà Phương nợ, Ngân hàng xác định, tính đến nay ông bà còn nợ 19.466.000đ nợ gốc và 149.740.000đ. Ngân hàng thừa nhận, việc Ngân hàng khi phát mại tài sản đã giao lại cho Ủy ban nhân dân xã An Lễ 20.000.000đ do Uỷ ban nhân dân xã An Lễ yêu cầu để trừ vào số tiền ông Nhạ, bà Phương còn thiếu khi mua đất là không đúng. Do đó, Ngân hàng xác định hiện ông Nhạ, bà Phương còn nợ 149.206.000đ sau khi phát mại tài sản, nhưng Ngân hàng không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này. Đối với khoản tiền 20.000.000đ đã giao cho Uỷ ban nhân dân xã An Lễ, Ngân hàng và Uỷ ban nhân dân xã An Lễ sẽ tự giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này. Ngân hàng xác định việc nhận thế chấp, kê biên, định giá và phát mại tài sản thế chấp của vợ chồng ông Nhạ, bà Phương là đúng với các quy định của pháp luật, nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nhạ, bà Phương.

2. Giải quyết của Tòa án

Tòa án cấp sơ thẩm (Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2011/DSST ngày 12/5/2011 của Tòa án nhân dân huyện Q) đã quyết định: Bác yêu cầu của ông Nhạ, bà Phương về việc đòi Ngân hàng trả lại tài sản là nhà đất và quyền sử dụng 14 lô đất đã phát mại và việc đòi Ngân hàng bồi thường thiệt hại về các khoản đền bù giải phóng mặt bằng một phần quyền sử dụng đất ở xã An Bài, phần tài sản có trên 14 lô đất đã phát mại và phần thiệt hại do ông, bà không được sử dụng tài sản là nhà đất từ tháng 5/1997 đến khi xét xử sơ thẩm, tổng cộng là 1.770.410.000đ. Đồng thời, buộc Ngân hàng có trách nhiệm trả ông Nhạ, bà Phương số tiền 20.000.000đ (do đã trừ lùi cho Uỷ ban nhân dân xã An Lễ khi Uỷ ban nhân dân xã An Lễ trúng thầu quyền sử dụng 14 lô đất do Ngân hàng phát mại). Khoản tiền này được trừ vào số tiền ông Nhạ, bà Phương vẫn còn nợ Ngân hàng sau khi phát mại tài sản.

Tòa án cấp phúc thẩm (Bản án dân sự phúc thẩm số 15/2011/DSPT ngày 28/9/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh T) đã sửa bản án sơ thẩm quyết định: Buộc Ngân hàng phải bồi thường cho ông Nhạ, bà Phương số tiền 117.600.000đ (do khi phát mại nhà đất cho vợ chồng ông Lộng, bà Khuyên đã tính thiếu giá trị 28m2 đất, theo định giá hiện tại là 4.200.000đ/m2).

3. Các quan điểm chưa thống nhất về giải quyết vụ án

Tuy quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm đã có hiệu lực phải thi hành, song trong quá trình giải quyết thi hành án vẫn có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau trong việc áp dụng pháp luật và giải quyết vụ án cần được cấp giám đốc thẩm xem xét lại. Chúng tôi xin nêu ra một số quan điểm để các nhà nghiên cứu pháp luật và áp dụng pháp luật phân tích đánh giá về quá trình giải quyết.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Thủ tục thế chấp quyền sử dụng 14 lô đất giữa ông Nhạ, bà Phương và Ngân hàng; việc định giá tài sản thế chấp vắng mặt ông Nhạ, bà Phương và việc bán đấu giá tài sản thế chấp là trái với quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm bác yêu cầu của ông Nhạ, bà Phương là không đúng.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Do vợ chồng ông Nhạ, bà Phương không trả nợ đầy đủ nên Ngân hàng buộc phải phát mại các tài sản mà ông, bà đã thế chấp để thu hồi vốn. Việc kê biên, định giá và phát mại các tài sản thế chấp được chính quyền địa phương chấp thuận và được Ngân hàng thực hiện công khai. Số tiền thuê được từ việc bán đấu giá tài sản thế chấp đã khấu trừ vào khoản tiền vợ chồng ông Nhạ, bà Phương nợ Ngân hàng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Nhạ, bà Phương đòi Ngân hàng phải trả toàn bộ tài sản thế chấp và bồi thường thiệt hại là có căn cứ.

4. Ý kiến trao đổi

Ngày 20/7/1995, ông Nhạ có 2 đơn xin vay vốn, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã An Bài, kèm theo là dự án sản xuất, kinh doanh hàng tổng hợp và xây dựng khách sạn mini. Tại khế ước vay tiền ngày 01/8/1995 và hai phiếu chi cùng ngày đã thể hiện, Ngân hàng đồng ý cho ông Nhạ (ký tên ở phần chủ hộ vay vốn) và bà Phương (ký tên ở phần người thừa kế thay chủ hộ) vay tổng số tiền 90.000.000đ, gồm 70.000.000đ thời hạn 12 tháng, lãi suất 2,5%/tháng và 20.000.000đ thời hạn 24 tháng, lãi suất 2,2%/tháng. Như vậy, đủ cơ sở xác định ông Nhạ, bà Phương có vay của Ngân hàng số tiền 90.000.000đ. Nay ông Nhạ, bà Phương cũng thừa nhận về vấn đề này.

Việc thế chấp, xử lý tài sản thế chấp là căn nhà mái bằng 23m2 và công trình phụ trên tổng diện tích 110m2 đất, trị giá 40.000.000đ: Ông Nhạ, bà Phương đã thế chấp nhà đất này cho Ngân hàng, thể hiện tại Biên bản định giá tài sản thế chấp xin vay vốn ngân hàng ngày 22/7/1995. Tuy nhiên, khi xử lý tài sản thế chấp, Ngân hàng chỉ phát mại quyền sử dụng 82m2 đất, thiếu 28m2 so với diện tích thực tế ông Nhạ, bà Phương đã thế chấp. Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, buộc Ngân hàng phải hoàn trả cho ông Nhạ, bà Phương giá trị quyền sử dụng 28m2 đất theo biên bản định giá của Tòa án cấp sơ thẩm với đơn giá 4.200.000đ/m2, bằng 117.600.000đ là có căn cứ.

Việc thế chấp, xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng 14 lô đất ở xã An Lễ: Tại thời điểm Ngân hàng giải ngân cho vợ chồng ông Nhạ vay vốn (ngày 01/8/1995), thì vợ chồng ông Nhạ chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng chính vợ chồng ông Nhạ đã nhiều lần khẳng định ông, bà là chủ sử dụng 14 lô đất và đã thế chấp cho Ngân hàng quyền sử dụng 14 lô đất này. Tại Phiếu đăng ký tài sản thế chấp ngày 05/8/1995 (sau khi được giải ngân), vợ chồng ông Nhạ cũng đã ký xác nhận thế chấp quyền sử dụng 14 lô đất, tổng diện tích 2.300m2, trị giá 100.000.000đ để vay vốn Ngân hàng. Quá trình Ngân hàng nhận thế chấp tài sản, không có đương sự nào tranh chấp với vợ chồng ông Nhạ về quyền sử dụng 14 lô đất nêu trên; đồng thời, cũng không có quyết định nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định các lô đất nêu trên là bất hợp pháp. Cuối năm 1995, vợ chồng ông Nhạ đã được Uỷ ban nhân dân huyện Q ra quyết định giao đất. Do đó, đủ cơ sở xác định vợ chồng ông Nhạ là chủ sử dụng hợp pháp 14 lô đất đã thế chấp cho Ngân hàng để vay vốn.

Quá trình sử dụng vốn vay của Ngân hàng, vợ chồng ông Nhạ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng kỳ hạn. Ngân hàng đã nhiều lần thông báo nợ quá hạn, nhưng vợ chồng ông Nhạ không thực hiện việc trả nợ. Ngày 02/5/1997, Ngân hàng đã lập tờ trình về việc phát mại tài sản thế chấp của ông Nhạ, bà Phương để thu hồi nợ, được Uỷ ban nhân dân huyện Q phê duyệt. Tính đến thời điểm lập tờ trình phát mại, ông Nhạ, bà Phương còn nợ Ngân hàng 87.500.000đ nợ gốc, trong đó nợ quá hạn là 80.000.000đ. Ngày 30/6/1997, bà Phương trả cho Ngân hàng được 1.000.000đ, sau đó không trả nữa, tiếp đó vợ chồng ông Nhạ đã đi khỏi địa phương, không thông báo cho Ngân hàng biết nơi cư trú. Ngày 29/6/2001, Ngân hàng đã tổ chức đấu giá công khai quyền sử dụng 14 lô đất của vợ chồng ông Nhạ, kết quả chỉ có ông Phạm Ngọc Thạch mua 1 lô, 13 lô còn lại không có người mua, sau đó Uỷ ban nhân dân xã An Lễ xin mua để làm mặt bằng bãi để xe cho khách đến tham quan di tích. Như vậy, việc kê biên, phát mại tài sản thế chấp là quyền sử dụng 14 lô đất của vợ chồng ông Nhạ đã được Ngân hàng thực hiện công khai, đúng quy định của pháp luật.

Trên đây là quan điểm của chúng tôi về việc giải quyết vụ án. Vụ án này có thời gian giải quyết tranh chấp kéo dài, việc xử lý tài sản thế chấp của Ngân hàng vẫn còn có ý kiến chưa đúng quy trình, thủ tục. Chúng tôi rất mong nhận được nhiều ý kiến trao đổi của bạn đọc.

ThS. Phan Ngọc Hà

Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.

Theo dõi chúng tôi trên: