Thứ bảy 07/06/2025 00:06
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Nghĩa vụ bảo mật thông tin khách hàng của luật sư

Nghề Luật sư là một nghề cao quý và luật sư là những người được xã hội tôn vinh, tin cậy. Thông qua hoạt động của mình, luật sư thực hiện chức năng xã hội cao cả đó là góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh[1]. Với tính chất đặc thù của mình, nghề luật sư có những quy tắc ứng xử riêng mà một trong số những quy tắc đó là quy tắc “giữ bí mật thông tin khách hàng”.


Nghĩa vụ bảo mật thông tin của luật sư được quy định tại Luật Luật sư năm 2012, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam (Ban hành theo Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày 20/7/2001 của Hội đồng Luật sư toàn quốc).

1. Trách nhiệm giữ bí mật thông tin khách hàng của luật sư

Thông tin của khách hàng là những tin tức, thông điệp khách hàng truyền đạt (nói, viết, trao đổi, tiết lộ) cho luật sư trong quá trình tiếp xúc, trao đổi giữa luật sư và khách hàng hoặc do luật sư biết được, thu thập được trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ việc của khách hàng. Thông tin về khách hàng (trong mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng) là những gì khách hàng đã biết hoặc do luật sư thu thập được bằng các biện pháp hợp pháp trong quá trình giải quyết vụ việc. Đó có thể là thông tin cá nhân của khách hàng, bí mật đời tư của khách hàng, tình hình tài chính, bí mật kinh doanh của khách hàng[2],...

Vấn đề giữ bí mật thông tin khách hàng của luật sư được pháp luật nước ta quy định từ rất sớm. Tại khoản 3 Điều 18 Pháp lệnh Tổ chức luật sư số 2A-LCT/HĐNN ngày 18/12/1987 của Hội đồng Nhà nước (Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987) đã quy định luật sư có nghĩa vụ: “Không được tiết lộ những bí mật mà mình biết được trong khi làm nhiệm vụ giúp đỡ pháp lý”. Sau đó Pháp lệnh số 37/2001/PL-UBTVQH10 ngày 25/7/2001 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X về Luật sư (Pháp lệnh Luật sư năm 2001) tiếp tục quy định về việc luật sư giữ bí mật thông tin khách hàng thông qua quy định về điều cấm đối với luật sư. Khoản 3 Điều 16 Pháp lệnh Luật sư năm 2001 quy định cấm luật sư: “Tiết lộ thông tin về vụ việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư, pháp luật có quy định khác”. Luật Luật sư năm 2006 cũng quy định một trong những nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động hành nghề luật sư “giữ bí mật thông tin khách hàng” và nghiêm cấm luật sư thực hiện hành vi: “Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác”[3].

Đồng thời, Điều 25 Luật Luật sư năm 2006 còn quy định về “Bí mật thông tin” như sau: “(1) Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; (2) Luật sư không được sử dụng thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; (3) Tổ chức hành nghề luật sư có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức hành nghề không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng của mình”. Điều 25 Luật Luật sư năm 2012 vẫn giữ nguyên quy định về bí mật thông tin khách hàng như quy định tại Luật Luật sư năm 2006.

Ngoài ra, vấn đề giữ bí mật thông tin khách hàng còn được quy định tại các Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam. Đầu tiên là “Quy tắc mẫu về đạo đức nghề nghiệp luật sư” được ban hành theo Quyết định số 356b/2002/QĐ-BTP ngày 05/8/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Trong đó, Quy tắc 9 quy định hai nội dung: “Luật sư không tiết lộ thông tin về vụ việc, về khách hàng khi không được khách hàng đồng ý” và “luật sư có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên của mình cũng không tiết lộ thông tin về vụ việc, về khách hàng của mình”. Ngày 20/7/2001, Hội đồng Luật sư toàn quốc đã ban hành Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ban hành “Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam”, trong đó, Quy tắc 12 chương II (Quan hệ với khách hàng) quy định về “giữ bí mật thông tin”: “Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật; luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên của mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết được và giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”.

Có thể thấy, vấn đề giữ bí mật thông về khách hàng của luật sư là một vấn đề mang tính pháp lý, được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Mặt khác, đây cũng là vấn đề đạo đức, ứng xử nghề nghiệp, là một trong những nét đặc thù của nghề luật sư. Hơn thế, việc giữ bí mật thông tin khách hàng còn là một trong những yếu tố tạo nên uy tín và sự thành công của cá nhân luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, bởi vì để có được niềm tin tuyệt đối của khách hàng, luật sư không chỉ cần giỏi ở chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp mà còn phải đảm bảo với khách hàng về việc giữ bí mật thông tin của họ.

2. Nguyên tắc giữ bí mật thông tin về khách hàng của luật sư

Thứ nhất, luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề[4]. Quy tắc 12 trong Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam cũng quy định: “Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý”. Do đó, đối với bản thân luật sư, luật sư phải bảo mật thông tin về khách hàng, không tiết lộ các thông tin về khách hàng.

Thứ hai, đối với các chủ thể khác ngoài luật sư và khách hàng, luật sư phải hạn chế các khả năng những thông tin về khách hàng bị tiết lộ, bị xâm phạm. Đối với các luật sư cùng hành nghề trong một tổ chức hành nghề luật sư (văn phòng luật sư hoặc công ty luật), không chỉ bản thân luật sư tiếp nhận, thụ lý giải quyết vụ việc của khách hàng phải giữ bí mật thông tin về khách hàng mà các luật sư khác trong cùng tổ chức hành nghề luật sư cũng phải giữ bí mật thông tin về khách hàng của tổ chức mình. Khoản 3 Điều 25 Luật Luật sư 2012 quy định: “Tổ chức hành nghề luật sư có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức hành nghề không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng của mình” và Quy tắc 12 Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư Việt Nam quy định: “luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên của mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết được và giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”[5].

Luật sư có trách nhiệm giữ bí mật thông tin về khách hàng trong lúc đang thụ lý giải quyết vụ việc cho đến khi vụ việc đã kết thúc. Quy tắc 12 chương II (Quan hệ với khách hàng) của Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam quy định rõ: “Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó”. Theo đó, việc giữ bí mật thông tin về khách hàng của luật sư không có sự giới hạn về thời gian. Khi kết thúc vụ việc, luật sư vẫn có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin về khách hàng.

Hiện nay, vẫn có một số quan điểm khác nhau về vấn đề bảo mật thông tin khách hàng của luật sư[6].

Quan điểm thứ nhất. luật sư phải giữ bí mật tất cả các thông tin về khách hàng. Quan điểm này cho rằng luật sư phải bảo mật tất cả các thông tin liên quan đến khách hàng, gồm cả các thông tin về nhân thân, nghề nghiệp và các thông tin của vụ việc. Việc giữ bí mật tuyệt đối và toàn diện sẽ tạo được sự tin cậy tuyệt đối cho khách hàng, nâng cao quy tắc ứng xử đạo đức nghề nghiệp của luật sư đối với khách hàng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của luật sư; quan điểm này cũng phù hợp với quy tắc “bảo vệ tốt nhất lợi ích của khách hàng”[7]. Tuy nhiên, quan điểm này cũng không phải là đúng trong mọi trường hợp, có những thông tin có tính chất đơn giản và không có khả năng gây hại cho khách hàng hay tác động đến bản chất vụ việc, do đó quan điểm này cũng có những bất cập cho luật sư trong thực tế.

Quan điểm thứ hai, luật sư chỉ có nghĩa vụ bảo mật đối với những tin về khách hàng được xem, được xác định là thông tin mật theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận bảo mật giữa luật sư và khách hàng. Quan điểm này tạo sự linh động cho luật sư khi xử lý thông tin khách hàng, tuy nhiên, vấn đề giới hạn thông tin là một vấn đề rất khó để định lượng trong thực tế. Để xác định loại thông tin nào cần bảo mật, loại thông tin nào không cần bảo mật, việc bảo mật có lập thành văn bản không… là cả một vấn đề nan giải, do đó cần quy định luật hóa và chi tiết hơn về vấn đề này.

Một lưu ý khác là luật sư chỉ bảo mật tất cả các thông tin mà luật sư biết được về khách hàng trong mối quan hệ nghề nghiệp với khách hàng, khi thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Luật sư không có nghĩa vụ giữ bí mật những thông tin về khách hàng mà luật sư biết được trước khi có quan hệ nghề nghiệp với khách hàng hoặc sau khi đã kết thúc vụ việc với khách hàng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật Luật sư năm 2012: Luật sư không được sử dụng thông tin về vụ việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đối với những vụ việc đã được công bố luật sư chỉ được phát biểu trên nguyên tắc “bảo vệ tốt nhất quyền lợi của khách hàng” và trên cơ sở những thông tin về khách hàng, liên quan đến vụ việc đã được công bố, tuyệt đối tránh vô tình tiết lộ các thông tin khác về khách hàng, về vụ việc nếu chưa được sự đồng ý của khách hàng[8].

3. Nghĩa vụ bảo mật thông tin khách hàng của luật sư và vấn đề liên quan đến tội không tố giác tội phạm

Điều 19 Luật số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018 (gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 2015) đã bổ sung thêm một chủ thể mới là người bào chữa. Theo đó, người không tố giác là người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này (Nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, từ Điều 108 đến Điều 122) hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa.

Hiện nay, vẫn có những quan điểm khác nhau về vấn đề liệu có sự mâu thuẫn giữa quy định về giữ bí mật thông tin khách hàng của luật sư với vấn đề không tố giác tội phạm?

Quan điểm thứ nhất cho rằng, về nguyên tắc, với tư cách là công dân thì người bào chữa có nghĩa vụ bình đẳng như mọi công dân khác trong việc tố giác tội phạm. Nguyên tắc này đã được Hiến pháp ghi nhận “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng”[9] và được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật. Điều 4 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm”; Điều 5 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “… cá nhân có nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội phạm” . Do đó, việc Nhà nước không miễn trừ hoàn toàn trách nhiệm của người bào chữa là đúng đắn. Xuất phát từ mục đích bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng nên trong một số trường hợp người bào chữa vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi không tố giác tội phạm của chính người mà mình bào chữa.

Quan điểm thứ hai cho rằng, luật sư có trách nhiệm làm sáng tỏ những tình tiết xác định thân chủ vô tội hoặc những tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho thân chủ. Khi tham gia bào chữa, thực chất luật sư không chỉ hỗ trợ cho thân chủ về mặt pháp lý mà còn giúp họ ổn định về mặt tâm lý, tinh thần, là cầu nối giữa thân chủ và gia đình họ; và luật sư thường được thân chủ tiết lộ các thông tin liên quan đến vụ việc một cách chi tiết, cụ thể nhất. Luật sư không được phép xúi giục thân chủ khai sai sự thật hay cung cấp tài liệu, bằng chứng giả nhưng không có nghĩa là luật sư có nghĩa vụ sử dụng thông tin mà thân chủ tiết lộ để tố giác ngược lại họ cho cơ quan tiến hành tố tụng. Bởi nếu tố giác thân chủ rõ ràng làm trái với lương tâm và đạo đức nghề nghiệp luật sư, phản bội lại niềm tin của thân chủ dành cho luật sư.

Mặt khác , điểm g, khoản 2, Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: “Người bào chữa không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Thông lệ của hầu hết các quốc gia trên thế giới cũng cho thấy việc bảo mật thông tin cho thân chủ là nghĩa vụ của luật sư và họ không phải chịu trách nhiệm hình sự vì không có hành động tố giác tội phạm. Luật sư có quyền từ chối tiếp tục bào chữa, biện hộ cho thân chủ nhưng không thể sử dụng các thông tin mà thân chủ đã tiết lộ cho họ để khai báo với các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm buộc tội thân chủ của mình.

Có thể thấy mỗi quan điểm lại có những luận cứ riêng, song đa số quan điểm cho rằng với tính chất nghề nghiệp đặc biệt như nghề luật sư, với những quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư, phạm vi trách nhiệm của người bào chữa theo Điều 19 Bộ luật Hình sự 2015[10] cần phải được thu hẹp hơn (theo Điều 19 Bộ luật Hình sự 2015, có khoảng 100 loại tội phạm mà người bào chữa có nghĩa vụ phải tố giác nếu biết được, kể cả trong trường hợp tội phạm đang được chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện)[11]. Nên chăng pháp luật chỉ quy định luật sư chỉ phải tố giác tội phạm đối với khách hàng khi khách hàng đó phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, không buộc luật sư phải tố giác đối với thân chủ phạm các tội đặc biệt nghiêm trọng[12].

4. Liên hệ nghĩa vụ bảo mật thông tin của một số chức danh tư pháp khác

Hiện nay, một số văn bản pháp luật cũng đã quy định về vấn đề bảo mật thông tin của các chức danh tư pháp khác. Đối với công chứng viên, Điều 7 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Nghiêm cấm công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng thực hiện các hành vi tiết lộ thông tin về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; sử dụng thông tin về nội dung công chứng để xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức”. Điểm đ khoản 2 Điều 17 Luật Công chứng năm 2014 cũng quy định về một trong những nghĩa vụ của công chứng viên là giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác.

Đối với thừa phát lại, Điều 6 Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh cũng quy định một trong những việc thừa phát lại không được làm là “Không được tiết lộ thông tin về việc thực hiện công việc của mình, trừ trường hợp pháp luật cho phép”.

Đối với thẩm phán, tại khoản 4 Điều 76 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cũng quy định trách nhiệm của thẩm phán là “Giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy định của pháp luật”.

Tuy nhiên, về vấn đề giữ bí mật thông tin khách hàng (đối với công chứng viên, thừa phát lại, đấu giá viên…) hoặc đối với việc thực hiện công việc của mình của một số chức danh tư pháp khác( thẩm phán, kiểm sát viên, chấp hành viên…) cần tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện và quy định cụ thể hơn, tương tự như quy định về vấn đề bảo mật thông tin khách hàng của luật sư. Từ đó, sẽ góp phần nâng cao văn hoá pháp lý cũng như chất lượng công tác tư pháp của nước ta hiện nay./.

ThS. Hoàng Thị Thanh Hoa

Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội


[1] Điều 3 Luật Luật sư năm 2012.

[2] Kiều Anh Vũ, Giữ bí mật thông tin về khách hàng- giới hạn và trách nhiệm của luật sư. https://danluat.thuvienphapluat.vn/ls-file.ashx?__key=00.00.20.96.75/...VU..., truy cập ngày 01/.03/2018.

[3] Điểm c khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư năm 2006.

[4] Khoản 1 Điều 25 Luật Luật sư năm 2012.

[5] Quy tắc 12 Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam.

[6] Luật sư Kiều Anh Vũ, Giữ bí mật thông tin về khách hàng- giới hạn và trách nhiệm của luật sư,

https://danluat.thuvienphapluat.vn/ls-file.ashx?__key=00.00.20.96.75/NGHIA-VU-BAO-MAT-CUA-LUAT-SU.pdf, truy cập ngày 14/04/2019

[7] Quy tắc 3 Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam.

[8] Luật sư Kiều Anh Vũ, Giữ bí mật thông tin về khách hàng- giới hạn và trách nhiệm của luật sư, https://danluat.thuvienphapluat.vn/ls-file.ashx?__key=00.00.20.96.75/NGHIA-VU-BAO-MAT-CUA-LUAT-SU.pdf; truy cập ngày 14/4/2019

[9] Điều 46 Hiến pháp năm 2013.

[10] Khoản 3 Điều 19 Bộ luật Hình sự quy định trách nhiệm của người bào chữa đối với trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa.

[11] Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Bàn về nghĩa vụ tố giác tội phạm của luật sư, http://motthegioi.vn/chuyen-hom-nay-c-155/ban-ve-nghia-vu-to-giac-toi-pham-cua-luat-su-63845.html, ngày đăng 26/5/2017, ngày trc: 07/3/2019.

[12] Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Bàn về nghĩa vụ tố giác tội phạm của luật sư, http://motthegioi.vn/chuyen-hom-nay-c-155/ban-ve-nghia-vu-to-giac-toi-pham-cua-luat-su-63845.html, ngày đăng 26/5/2017, ngày trc: 07/3/2019.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm