Bình đẳng trước pháp luật là nguyên tắc cơ bản, quan trọng không chỉ được ghi nhận trong Hiến pháp mà còn được thể hiện ngay trong lời mở đầu của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948. Ở nước ta, ngay sau khi giành được độc lập, bình đẳng là quyền cơ bản, quan trọng được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và quy định trong các bản Hiến pháp, được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật. Ở đó, bình đẳng trước pháp luật nói chung và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ nói riêng được thể hiện trong các luật tố tụng (hình sự, dân sự, hành chính…). Trong đó, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính là một trong những nguyên tắc nhằm bảo đảm quyền con người. Nguyên tắc đó không chỉ là quy định của pháp luật tố tụng hành chính mà nó còn được Nhà nước ngày càng mở rộng, hoàn thiện và bảo đảm trong thực tế của đời sống xã hội.
1. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật trong pháp luật quốc tế
Khi nói đến quyền bình đẳng của mọi công dân là nói đến sự ghi nhận quyền này trong pháp luật: Điều 6 và Điều 7 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948; Điều 26 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Dưới góc độ pháp lý, quyền con người trong đó có quyền bình đẳng trước pháp luật là một quan hệ pháp luật mà mỗi bên tham gia quan hệ đó đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý. Cụ thể:
Thứ nhất, bình đẳng trước pháp luật được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948. Tuy nhiên, đây mới chỉ là tuyên bố mà các nhà nước có thể tiếp thu chứ không mang giá trị ràng buộc. Điều 6 Tuyên ngôn này tuyên bố: Mọi người đều có quyền được công nhận tư cách là con người trước pháp luật ở mọi nơi. Điều 7 Tuyên ngôn khẳng định: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất cứ sự phân biệt nào.
Thứ hai, quyền bình đẳng trước pháp luật đã phát triển thêm một bước khi được đưa vào Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 với tư cách là một văn bản quy phạm pháp luật quốc tế có giá trị ràng buộc pháp lý với các quốc gia tham gia và được cụ thể hóa hơn so với Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948. Không những vậy, nó còn là nguyên tắc của luật nhân quyền quốc tế, được thể hiện ở nhiều công ước quốc tế khác nhau về các quyền con người. Điều 14 Công ước này ghi nhận: “Mọi người đều bình đẳng trước các Tòa án và cơ quan tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự...”. Không chỉ khẳng định, chi tiết hóa, Công ước trên còn tạo ra cơ chế để bảo vệ quyền con người. Điều 26, Điều 27 Công ước quy định: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử và bảo đảm cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng và có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác.
Đây đều là cơ sở cao nhất về quyền bình đẳng trước pháp luật được ghi nhận tại một trong những văn kiện quốc tế nền tảng về quyền con người.
2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật trong pháp luật Việt Nam
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật là một quyền hiến định (được ghi nhận trong các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992, năm 2013), là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đặc biệt, nguyên tắc này tiếp tục được cụ thể hóa trong các quy định của hệ thống pháp luật tố tụng để giải quyết những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thông qua thẩm quyền của Tòa án.
Tuyên ngôn độc lập năm 1945 mặc dù không phải là văn bản pháp luật nhưng là lời tuyên bố chính thức của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước toàn thể thế giới rằng, nước Việt Nam là một nước độc lập và mọi người dân Việt Nam được sinh ra đều có quyền bình đẳng, ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ như người dân của các nước khác trên thế giới.
Quyền bình đẳng trước pháp luật ở Việt Nam đã được thể hiện ngay từ Hiến pháp năm 1946 - một bản Hiến pháp được ca ngợi ở nhiều phương diện, trong đó có phương diện bảo vệ quyền con người và quyền bình đẳng trước pháp luật. Chẳng hạn Điều thứ 6, Điều thứ 7 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: Chính trị, kinh tế, văn hoá”; “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình”.
Kế thừa tư tưởng lập hiến tiến bộ trong đó có những tư tưởng văn minh tiến bộ về quyền con người có từ những năm đầu thế kỷ và đặc biệt là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật tại Điều 51. Đến Hiến pháp năm 2013, Điều 16 quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Như vậy, Hiến pháp năm năm 2013 quy định theo hướng mở rộng đối tượng có quyền bình đẳng trước pháp luật; khẳng định quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi người được công nhận trong tất cả lĩnh vực, bao gồm đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 có những quy định về tố tụng công bằng như bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử (khoản 5 Điều 103); nguyên tắc người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai (khoản 2 Điều 31); người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa (khoản 4 Điều 31).
Bình đẳng về quyền, nghĩa vụ được xác định là một trong những nội dung cơ bản để bảo đảm quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, là nguyên tắc quan trọng thể hiện trong quan điểm, đường lối của Đảng và được thể chế hóa vào Hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, quyền bình đẳng đó được thể hiện ở nhiều lĩnh vực, phương diện khác nhau và được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng nói riêng. Cụ thể hóa nội dung về quyền bình đẳng trong Hiến pháp, Điều 12 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã quy định bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án: “Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức đều bình đẳng trước Tòa án”. Theo đó, khi quy định cụ thể, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (điểm b khoản 1 Điều 3), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (khoản 1 Điều 3) và Luật Tố tụng hành chính năm 2015 cũng như các văn bản luật tố tụng trước đây, mặc dù đều có quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án nhưng chỉ dừng ở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng.
3. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng hành chính
Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính là một trong những nội dung pháp lý quan trọng không chỉ nhằm bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà còn thể hiện thái độ, trách nhiệm của Nhà nước, thông qua thể chế pháp luật (quy định của pháp luật trong hoạt động tư pháp mà cụ thể là hoạt động tố tụng hành chính). Qua đó, thể hiện sự dân chủ, tiến bộ của chế độ xã hội, mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước, nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân.
Điều 17 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định việc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính như sau[1]:
“1. Trong tố tụng hành chính, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, địa vị xã hội.
2. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính trước Tòa án.
3. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình”.
Pháp luật tố tụng hành chính quy định cụ thể về nguyên tắc bình đẳng với các nội dung như: Bình đẳng về bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (có thể tự mình hoặc nhờ luật sư hay người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình); bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính (không phân biệt về giới tính, dân tộc, hình thức tổ chức, hình thức sở hữu…); bình đẳng trong dùng tiếng nói, chữ viết (bảo đảm để các đương sự thuộc các dân tộc khác nhau có điều kiện bày tỏ, diễn đạt và thể hiện được các yêu cầu, đưa ra bằng chứng, lý lẽ bằng ngôn ngữ, chữ viết của dân tộc mình…). Những quyền này được thể hiện đầy đủ, công bằng trong tố tụng hành chính và được Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện, bảo đảm trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.
3.1. Nội dung nguyên tắc
Một là, bình đẳng trước pháp luật và trước Tòa án. Đây là sự bình đẳng ở khía cạnh pháp lý, không một ai bị phân biệt đối xử khi tham gia vào các quan hệ do pháp luật tố tụng hành chính quy định.
Hai là, bình đẳng giữa các đương sự về quyền và nghĩa vụ. Bình đẳng giữa các chủ thể là đương sự với nhau và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng trong việc chứng minh, đưa ra các yêu cầu, tham gia phiên tòa, kháng cáo, kiến nghị kháng cáo và kháng nghị, cung cấp chứng cứ và khiếu nại. Các chủ thể tham gia tố tụng với tư cách khác nhau sẽ có các quyền và nghĩa vụ tương ứng[2]. Chính vì vậy, với pháp luật tố tụng hành chính thì các đương sự hoàn toàn bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Chỉ có Hội đồng xét xử mới có quyền ra phán quyết về tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Bảo đảm cho các bên tham gia tố tụng tại tòa hành chính bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật, tự do bảo vệ chính kiến của mình trước Tòa án.
Ba là, Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Tòa án bảo đảm sự công bằng trong việc đánh giá về chứng cứ và lợi ích của các bên đương sự; Tòa án phải công tâm và khách quan khi giải quyết vụ án hành chính, không bị áp lực từ phía các chủ thể khác, đặc biệt là cơ quan hành chính nhà nước[3]. Chỉ có Hội đồng xét xử mới có quyền phán xét về tính hợp pháp của đối tượng khiếu kiện. Sự bình đẳng này được thể hiện trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hành chính. Điều này thể hiện rõ nét nhất thông qua hoạt động hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, hoạt động cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ hợp pháp hay Tòa án cũng bảo đảm cho các đương sự trong vụ án hành chính có quyền kháng cáo như nhau với bản án hay quyết định của Tòa án[4].
Như vậy, xuất phát từ đặc trưng của phương pháp điều chỉnh, địa vị pháp lý của các chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính nên nó tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong tố tụng hành chính hiện nay. Với 03 nhóm cơ bản gồm: (i) Trong tố tụng hành chính, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội; (ii) Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính trước Tòa án mà không có sự phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác; (iii) Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
So với Luật Tố tụng hành chính năm 2010, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có những quy định mới nhằm điều chỉnh quan hệ giữa chủ thể tiến hành tố tụng hành chính với chủ thể tham gia tố tụng hành chính hoặc giữa các đương sự với nhau (như quy định về đối thoại trong giải quyết vụ án hành chính) đã tạo điều kiện để các bên chủ thể trao đổi, thống nhất, bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về các tranh chấp hành chính được Tòa án thụ lý để giải quyết. Qua đó, các bên được bình đẳng, tự định đoạt ý chí của mình và đi đến sự thống nhất về việc giải quyết vụ án, giảm bớt bất đồng, mâu thuẫn, tăng sự đồng thuận, nhất trí và giảm tải số lượng vụ việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Tòa án nhưng vẫn đạt mục đích mà cả Tòa án và các bên đương sự đặt ra.
3.2. Ý nghĩa của nguyên tắc
Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính tạo cơ sở pháp lý quan trọng để các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hành chính thực hiện đúng các quy định của pháp luật, trong đó, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng hành chính, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng hành chính, góp phần tiếp tục mở rộng, hoàn thiện quy định của pháp luật đối với thực hiện quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý hành chính nhà nước.
Một là, đối với các đương sự và nhất là người khởi kiện trong vụ án hành chính thì nguyên tắc trên là cơ sở rất cần thiết để các đương sự bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước đối phương và trước Tòa án có thẩm quyền, loại trừ trường hợp đương sự bị Tòa án trù dập, cản trở việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng hành chính của mình mà pháp luật đã quy định rõ.
Hai là, đối với Tòa án, nguyên tắc này là căn cứ pháp lý rõ ràng nhất để Tòa án hiểu rõ về trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm cho đương sự được bình đẳng về các quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính, loại trừ tình trạng Tòa án bao che, dung túng, thiên vị trong việc yêu cầu các đương sự thực hiện nghĩa vụ và hưởng quyền tố tụng hành chính của họ, cũng như hiện tượng Tòa án thiếu trách nhiệm trong việc tạo điều kiện cho các đương sự được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng hành chính của họ. Chung quy lại tất cả các luận điểm này thì nguyên tắc là nền tảng thiết yếu để việc giải quyết vụ án hành chính của Tòa án được chính xác, khách quan, công bằng và dân chủ, quyền và lợi ích của các bên đương sự được thống nhất.
Như vậy, nguyên tắc này là cơ sở để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các đương sự khác, người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Giúp Tòa án biết rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm sự bình đẳng của đương sự trước Tòa án và trước pháp luật.
3.3. Thực trạng thực hiện quy định pháp luật về nguyên tắc bình đẳng
Bên cạnh những ưu điểm, quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện nguyên tắc bình đẳng quyền, nghĩa vụ trong tố tụng hành chính còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập nhất định, cụ thể:
Một là, trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật với những nguyên nhân khác nhau mà nguyên tắc này chưa thực sự phát huy hiệu quả trên thực tế, nhiều khi còn mang tính hình thức và chưa được bảo đảm đối với đương sự là người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Ở đó, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hành chính có vai trò rất quan trọng, nhất là đối với Tòa án thì việc bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ tố tụng hành chính phụ thuộc rất nhiều vào chủ thể tiến hành tố tụng hành chính (Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, chánh án Tòa án, thẩm phán, viện trưởng Viện kiểm sát, kiểm sát viên…).
Hai là, có những quy định thiếu tính phù hợp và cụ thể, những hạn chế, bất cập này cần sớm được khắc phục để nâng cao hiệu quả và tính khả thi trong đời sống xã hội. Từ những quy định chung chung của pháp luật, chưa có văn bản quy định chi tiết hay hướng dẫn thi hành nên trong quá trình thực hiện đôi khi còn mang tính hình thức, chưa thực chất và nguyên tắc này chưa được tôn trọng triệt để và rất khó bảo đảm đối với các đương sự (nhất là đối với người khởi kiện, người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự).
3.4. Một số đề xuất, kiến nghị góp phần bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng
Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính là nguyên tắc cơ bản, trọng tâm của Luật Tố tụng hành chính, góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Muốn bảo đảm việc triển khai nguyên tắc này trong thực tiễn xét xử hành chính ở nước ta một cách có hiệu quả nhất thì cần có cơ chế để bảo đảm. Cụ thể:
Một là, cần thường xuyên rà soát các quy định pháp luật tố tụng hành chính và các quy định pháp luật có liên quan đến bảo đảm bình đẳng nói chung, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính nói riêng để khắc phục sự quy định “rải rác”, “tản mạn” trong các văn bản khác nhau, bảo đảm tính hệ thống, thống nhất của pháp luật với mục đích thực hiện bình đẳng giữa các chủ thể và phát huy tối ưu nguyên tắc này trong tố tụng hành chính.
Hai là, sớm hoàn thiện các quy định trong pháp luật tố tụng hành chính mà cụ thể là rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và các văn bản có liên quan. Việc sửa đổi, bổ sung theo hướng hoàn thiện quyền công dân, quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân; bảo đảm để người khởi kiện, người bị kiện có thể tiếp cận hồ sơ, tài liệu, tham gia đối thoại, thi hành án hành chính, bình đẳng một cách “thực chất” về công bằng, bình đẳng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Nghiên cứu, cân nhắc nên bổ sung, hoàn thiện hơn nữa các nguyên tắc của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 nhất là quy định về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hành chính.
Ba là, từ quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành pháp luật tố tụng hành chính cũng như một số quy định pháp luật khác có liên quan thì việc bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính đã bộc lộ những bất cập nhất định, cơ quan có thẩm quyền cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan đến hoạt động giải quyết tranh chấp hành chính (bao gồm cả giải quyết theo phương thức khiếu nại theo thủ tục hành chính và theo thủ tục tố tụng hành chính thông qua việc khởi kiện vụ án hành chính) để xác định rõ trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ liên quan đến tranh chấp hành chính phải cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời khi có yêu cầu và bảo đảm quyền được tiếp cận hồ sơ, tài liệu của người khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Bốn là, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã có nhiều quy định mới bổ sung theo hướng mở rộng quyền cho đương sự trong vụ án hành chính như quyền tham gia tố tụng từ khi khởi kiện vụ án hành chính hoặc quyền được sao chụp những tài liệu, chứng cứ, tham gia tranh tụng tại phiên tòa hoặc quy định “không ai được hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án hành chính”. Đây là những quy định quan trọng góp phần bảo đảm nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính, tuy nhiên, cần phải có những thiết chế chặt chẽ, cơ chế phù hợp để kiểm tra, kiểm sát, giám sát việc thực hiện các nguyên tắc tố tụng hành chính, trong đó có nguyên tắc bình đẳng quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng hành chính. Có như vậy, các nguyên tắc này mới phát huy tác dụng nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trong giải quyết vụ án hành chính hiện nay.
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh