Tố tụng hình sự (TTHS) với tư cách là hoạt động pháp luật của các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm của Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS), Tòa án phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định là điều tất yếu. Theo quan điểm chung, nguyên tắc của TTHS được hiểu là “những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động TTHS hoặc đối với một loạt hoạt động nhất định”[[1]].Trong khoa học luật TTHS, nguyên tắc được hiểu là “những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số hoạt động TTHS được ghi nhận trong Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan”[[2]]. Như vậy, nguyên tắc là những cái cơ bản nhất, chung nhất và luôn mang tính chất chỉ đạo đối với nhà lập pháp cũng như người thực thi pháp luật. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung bàn về nguyên tắc xét xử công khai trong tố tụng hình sự
1. Nguyên tắc xét xử công khai trong tố tụng hình sự
1.1. Định nghĩa nguyên tắc xét xử công khai
Theo Từ điển tiếng Việt, nguyên tắc với nghĩa chung nhất được hiểu là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”[[3]]. Nguyên tắc được coi là cái không thể thiếu trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, bảo đảm cho những hoạt động đó đi đúng hướng và đạt hiệu quả cao.
Theo từ điển Luật học thì “xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng nhiệm vụ của Tòa án. Tòa án là cơ quan duy nhất của một nước đảm nhiệm chức năng xét xử, không ai có thể buộc tội mà không qua xét xử của Tòa án và kết quả xét xử phải được công bố bằng bản án”[[4]]. Vì xét xử là hoạt động của Tòa án, một hoạt động đặc trưng của việc thực hiện chức năng tư pháp của Nhà nước, nên hoạt động này được tiến hành theo cách thức hay thủ tục nhất định dựa trên những nguyên tắc tố tụng hết sức nghiêm ngặt. Bởi vì kết quả của nó ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan.
Trong từ điển Tiếng Việt “công khai” được giải thích như sau: “Công khai là việc không giữ kín mà để cho mọi người đều có thể biết”[[5]].Tính công khai trong công tác xét xử được hiểu là việc xét xử các vụ án được tiến hành một cách công khai, mọi người đều có thể tham dự và theo dõi diễn biến của phiên tòa xét xử.
Như vậy, có thể nói nguyên tắc xét xử công khai là những tư tưởng chỉ đạo đòi hỏi các nhà làm luật khi xây dựng pháp luật phải đảm bảo cho hoạt động xét xử được tiến hành một cách công khai. Đối với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thực hiện công tác xét xử thì pháp luật đòi hỏi phải tuân thủ tính công khai của hoạt động xét xử, trừ những trường hợp pháp luật có quy định xử kín.
Trong khoa học pháp lý hiện nay, nguyên tắc xét xử công khai có nhiều quan điểm khác nhau như sau:
Quan điểm thứ nhất[[6]]: Mọi hoạt động xét xử của Tòa án bao gồm xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử theo thủ tục đặc biệt (giám đốc thẩm, tái thẩm) đều phải tiến hành công khai. Quan điểm này cho rằng phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm giống một phiên toà xét xử thông thường, là nơi diễn ra tranh luận và quyết định hướng giải quyết vụ án.
Quan điểm thứ hai[[7]]: Nguyên tắc xét xử công khai chỉ áp dụng đối với thủ tục xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm, không áp dụng đối với thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm.
Quan điểm thứ ba[[8]]: Chỉ xét xử công khai đối với phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm bởi nguyên tắc cơ bản trong TTHS là thực hiện chế độ hai cấp xét xử, đối với giám đốc thẩm và tái thẩm Tòa án không phải là một cấp xét xử, không sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, Tòa án không mở phiên tòa mà chỉ là một cuộc họp nhằm xem xét tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị mà thôi.
Tại phiên họp giám đốc thẩm, hội đồng giám đốc thẩm chỉ căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ mà căn cứ vào đó, Tòa án cấp dưới đã xét xử vụ án; không xem xét chứng cứ, tài liệu mới. Vì vậy, hội đồng không cần thiết phải nghe người bị kết án hay người khác trình bày về các tình tiết của vụ án. Mặt khác, tại phiên họp, hội đồng giám đốc thẩm chỉ có nhiệm vụ xét nội dung kháng nghị, nếu có căn cứ thì hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra hay xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án; nếu thấy kháng nghị không có căn cứ thì giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, quyết định của hội đồng giám đốc thẩm không trực tiếp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án cũng như những người liên quan đến kháng nghị, nên sự có mặt của họ tại phiên toà giám đốc thẩm không bắt buộc. Mặt khác, lúc này án đã có hiệu lực pháp luật, đã hoặc đang thi hành, thậm chí đã thi hành xong, những người này không còn là người tham gia tố tụng và việc tham gia phiên toà không còn là quyền hoặc nghĩa vụ tố tụng của họ.
Đối với thủ tục tái thẩm, quan điểm về thủ tục này cũng tương đồng với thủ tục giám đốc thẩm. “Tái thẩm được hiểu không phải là một cấp xét xử mà là một thủ tục đặc biệt theo đó bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực được xem xét lại trên cơ sở có kháng nghị của người có thẩm quyền khi phát hiện có các tình tiết, chứng cứ mới mà các tình tiết, chứng cứ mới này chưa được xem xét và đánh giá ở trong các giai đoạn xét xử trước”[9].
Theo tác giả, cách hiểu theo quan điểm thứ hai và thứ ba chưa hợp lý vì tính chất đặt biệt của thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, nên tính công khai của nó bị giới hạn. Bởi trong trường hợp cần thiết, người bị kết án, người bào chữa và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị cũng được mời tham gia phiên hợp giám đốc thẩm và tái thẩm.
1.2. Nội dung nguyên tắc xét xử công khai trong Tố tụng hình sự Việt Nam
Thông qua Hiến pháp - đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất cùng với các văn bản pháp luật chuyên ngành đều quy định việc xét xử của Tòa án được tiến hành công khai, mọi công dân từ đủ 16 tuổi trở lên đều có thể tham dự và Tòa án phải công bố tất cả các quyết định được thông qua trong quá trình xét xử của vụ án. Tòa án xét xử công khai ở trụ sở Tòa án nhưng trong một số trường hợp cần phát huy mạnh mẽ tác dụng giáo dục và phòng ngừa của công tác xét xử, thì Tòa án có thể tiến hành các phiên tòa xét xử lưu động tại nơi xảy ra tội phạm. Nguyên tắc xét xử công khai không chỉ áp dụng đối với hoạt động xét xử sơ thẩm mà còn đối với cả hoạt động xét xử phúc thẩm[10]. Cụ thể hóa nguyên tắc này thông qua các hoạt động của Tòa án qua việc quy định về công khai quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời gian, địa điểm mở phiên tòa phải được niêm yết công khai trước khi xét xử; tại phiên tòa công khai các chứng cứ, tài liệu điều tra trong giai đoạn điều tra, bản cáo trạng… sau khi xét xử cần phải tuyên án công khai và bản án đó Tòa án có thể công bố trên báo chí, đài phát thanh hoặc bằng các phương tiện thông tin đại chúng khác để mọi người được biết. Để đảm bảo cho nguyên tắc công khai được thực hiện xuyên suốt, pháp luật TTHS cũng đã có những quy định cụ thể như quy định về thủ tục chuẩn bị xét xử, thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận, tuyên án…
Tuy nhiên, đảm bảo nguyên tắc xét xử công khai không có nghĩa là trong tất cả mọi trường hợp với mọi vụ án đều xét xử công khai mà có những trường hợp đặc biệt cần giữ gìn bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ hay để bảo vệ người chưa thành niên thì Tòa án được tiến hành xử kín. Xử kín là một chế định đã được quy định ngay từ Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 đầu tiên của nước ta và được khẳng định lại tại Điều 18 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003. Việc quy định xử kín là hoàn toàn hợp lý, vì lợi ích của xã hội, vì lợi ích của đương sự, thể hiện sự tôn trọng của pháp luật đối với nhân phẩm danh dự của đương sự trong vụ án. Quy định này chẳng những không vi phạm quy định về nguyên tắc xét xử công khai mà nó còn phù hợp với xu hướng phát triển chung của luật pháp luật TTHS trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay hai khái niệm “thuần phong mỹ tục của dân tộc” và “bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ” vẫn chưa được cơ quan có thẩm quyền giải thích một cách cụ thể, chi tiết để áp dụng thống nhất. Vì thế, trên thực tế một vụ án có thuộc trường hợp xử kín hay không chủ yếu dựa vào đánh giá chủ quan của cơ quan xét xử.
1.3. Ý nghĩa nguyên tắc xét xử công khai trong Tố tụng hình sự Việt Nam
Nguyên tắc xét xử công khai là sự thể hiện cụ thể của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong TTHS. Vấn đề nhân quyền luôn là điểm nóng của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, các thế lực phản động và hiếu chiến luôn lấy vấn đề nhân quyền để kích động nhân dân, chống phá cách mạng. Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ phát triển và hội nhập, song Nhà nước luôn chú ý tới việc phát huy toàn diện quyền tự do dân chủ của công dân, bảo đảm các quyền con người. Việc Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan ghi nhận việc xét xử công khai cho bị cáo và có cơ chế đảm bảo thực hiện nguyên tắc này là nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng qua đó thể hiện bản chất ưu việt của Nhà nước ta.
Xét xử công khai là một trong những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 18 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003. Theo GS.TS Luật học Võ Khánh Vinh “Việc xét xử công khai thể hiện tính dân chủ nhằm tạo điều kiện cho nhân dân kiểm tra, giám sát được các hoạt động của Tòa án”[11], qua đó phát hiện những thiếu sót hoặc sai lầm trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, của công dân theo quy định của pháp luật. Như vậy có thể thấy xét xử công khai nhằm đảm bảo cơ chế kiểm tra và giám sát của dân đối với hoạt động xét xử. Sự kiểm tra giám sát của dân đối với hoạt động của nhà nước nói chung và hoạt động xét xử nói riêng, là đòi hỏi cấp bách của một xã hội dân chủ. Mọi hoạt động của Nhà nước không được công khai, triệt tiêu sự giám sát của dân đều có khả năng dẫn đến chuyên quyền, quan liêu và tệ hơn nữa là ở nơi đó “quốc nạn tham nhũng” được hoành hành.
Xét xử công khai nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của thẩm phán và hội thẩm nhân dân trước quần chúng[12]. Hoạt động xét xử tại phiên tòa là công khai trừ một số trường hợp do pháp luật quy định phải xử kín, vì vậy, ngoài hội đồng xét xử còn có đông đảo nhân dân theo dõi phiên tòa, nhất cử nhất động của thẩm phán - chủ tọa phiên tòa nói riêng, hội đồng xét xử nói chung đều được những người tham gia tố tụng, đương sự của vụ án và những người tham dự phiên tòa quan sát và đánh giá. Đối với các phiên tòa xét xử lưu động, việc lập kế hoạch xét xử phải được thẩm phán đặc biệt chú ý. Trong kế hoạch xét xử phải xác định trình tự xem xét các tình tiết, các chứng cứ; đánh giá, kiểm tra nguồn của các thông tin này. Việc lập kế hoạch xét xử có tác dụng tránh được những tác động tình cảm nhất định do từng loại thông tin gây ra; đảm bảo được tính liên tục, hệ thống, toàn diện và đầy đủ của việc nghiên cứu thông tin, đánh giá chứng cứ. Đồng thời dự đoán được những tình huống có thể xảy ra và chuẩn bị kế hoạch xử lý các tình huống đó một cách chủ động, linh hoạt tại phiên tòa xét xử lưu động. Phần lớn thẩm phán ý thức được ý nghĩa của việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử; tuy nhiên vẫn còn một số thẩm phán chưa ý thức được vấn đề này cho rằng việc giáo dục pháp luật là của nhà trường và xã hội chứ không phải là việc của thẩm phán. Thực tiễn xét xử của các Tòa án nước ta những năm qua cho thấy, còn những thẩm phán vi phạm pháp luật; có vụ án việc xét xử không đảm bảo tính khách quan, chất lượng xét xử còn thấp làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; làm cho uy tín của Tòa án bị ảnh hưởng nghiêm trọng; vai trò giáo dục công dân của Tòa án qua hoạt động xét xử không được phát huy. Vì thế, thông qua xét xử công khai cũng góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của thẩm phán và hội thẩm nhân dân trước quần chúng.
Ngoài ra xét xử công khai còn có tác dụng giáo dục ý thức pháp luật cho quần chúng nhân dân. Thông qua hoạt động xét xử là hình thức giáo dục đặc thù nhất và quan trọng nhất của Tòa án, thẩm phán luôn làm cho mọi người thấy rằng bất cứ sự việc vi phạm pháp luật nào đều bị xử lí theo pháp luật. Bằng thái độ khách quan, nghiêm túc của thẩm phán trong quá trình xét hỏi hay trong việc đảm bảo quyền bình đẳng của các bên trong tranh luận để tìm ra sự thật của vụ án cũng như đảm bảo đầy đủ, đúng yêu cầu các nguyên tắc của quá trình xét xử làm cho những người tham gia tố tụng và đông đảo quần chúng tham dự phiên tòa có thái độ đúng đắn với những hành vi vi phạm pháp luật, giáo dục họ ý thức tuân thủ các quy phạm pháp luật mà Nhà nước đã đề ra, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lí theo từng trường hợp cụ thể mà phiên tòa là một minh chứng cho sự nghiêm minh của pháp luật, qua đó góp phần tích cực vào công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
2. Những hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng nguyên tắc xét xử công khai trong Tố tụng Hình sự và kiến nghị hoàn thiện
Các cơ quan tiến hành tố tụng đã đạt được những thành quả đáng trân trọng khi áp dụng nguyên tắc công khai vào trong trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, đã xử lý công minh những hành vi phạm tội, thực hiện tốt công việc giáo dục ý thức pháp luật trong quần chúng nhân dân, góp phần không nhỏ vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, tình trạng điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn oan sai xảy ra, mặc dù số oan sai này không lớn so với số vụ án được đưa ra xét xử nhưng đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào cơ quan tư pháp nên cần phải được khắc phục kịp thời.
Nguyên nhân của tình trạng oan sai xuất phát từ mặt trái, hạn chế của nguyên tắc xét xử công khai, có nhiều nguyên nhân nhưng có thể quy về một số nguyên nhân chủ yếu sau: Do bất cập của pháp luật, do sai sót, hạn chế từ các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Mặt khác, các văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về áp dụng nguyên tắc xét xử công khai cũng chưa kịp thời, đầy đủ và chính xác. Vì vậy, trong thực tiễn áp dụng nguyên tắc xét xử công khai có những vướng mắc thể hiện ở một số vấn đề sau đây:
Theo quy định tại Điều 18 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, thì Tòa án có thể xử kín trong trường hợp cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ. Thế nhưng hiện nay, chưa có bất kỳ văn bản nào hướng dẫn cho trường hợp đặc biệt là như thế nào để tiến hành xử kín. Thực tiễn xét xử những vụ án liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật đời tư của đương sự thì chủ yếu dựa vào ý chí thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định dẫn đến có nhiều vụ án đáng lẽ ra phải được xét xử kín thế nhưng những vụ án này vẫn xét xử công khai, còn những vụ án cần phải xét xử công khai lại xử kín. Tác giả xin đưa ra một vài minh chứng:
Về thuần phong mỹ tục của dân tộc:
Ngày 08/05/2012 tại Tòa ánh nhân dân tỉnh Cà Mau đã xét xử sơ thẩm công khai Vụ án hình sự thụ lý số: 20/2011/HSST ngày 13/3/2012 đối với bị cáo Cao Văn Sơn sinh năm 1955 và bị hại Cao Kim Thanh sinh năm 1995. Bị cáo đã bị Viện kiểm soát nhân dân tỉnh Cà Mau truy tố về tội hiếp dâm trẻ em theo bản cáo trạng số 17/KSĐT-TA ngày 12/3/2012. Bị cáo là một người cha, đáng ra bị cáo phải yêu thương, chăm sóc, giáo dục để con mình phát triển toàn diện về mặt thể chất và tinh thần, nhưng bị cáo lai xâm hại tình dục chính đứa con ruột của mình nhiều lần trong khoảng thời gian dài, hành vi của bị cáo trái với đạo đức xã hội, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Với tư cách là một yếu tố thuộc giá trị truyền thống của dân tộc, những tư tưởng và tình cảm, những thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của một gia đình, một dân tộc nhất định được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, chính vì thế theo tác giả những vụ án như thế đáng lẽ ra phải được xét xử kín nhằm giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ gìn nét văn hóa của người Á Đông trong quan hệ với bạn bè quốc tế.
Về bí mật đời tư của đương sự:
Ngày 13/01/2015 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây tỉnh Tiền Giang đã mở phiên tòa công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 38/2014/HSST ngày 17/12/2014 đối với vị cáo Nguyễn Đức Việt sinh năm 1996 và bị hại Huỳnh Thị Ngọc Trâm sinh năm 2000, bị cáo bị Viện kiểm soát nhân dân huyện Gò Công Tây truy tố về tội giao cấu với trẻ em theo bản cáo trạng số 01/KSĐT-TA ngày 15/12/2014. Hành vi của các bị cáo tuy là đặt biệt nghiêm trọng vì đã xâm hại đến tình dục trẻ em, khách thể được luật hình sự bảo vệ, nhưng vụ án liên quan đến bí mật đời tư của các bị hại, hơn thế nữa các bị hại lại là trẻ vị thành niên, các bị hại còn tương lai rất dài, việc xét xử công khai hành vi của các bị cáo tuy có tác dụng giáo dục, phòng ngừa tội phạm, nhưng sẽ làm mất đi tương lai của một đứa trẻ, ảnh hưởng đến tâm sinh lý của trẻ vị thành niên, theo tác giả những vụ án như thế cần được xét xử kín để bảo vệ bí mật đời tư của bị hại.
Vì lẽ đó, theo tác giả ngoài việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) về nguyên tắc xét xử công khai mà tác giả đã đề cập ở trên, các cơ quan có thẩm quyền cần kịp thời các văn bản như: Thông tư liên tịch, Nghị quyết Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao... để hướng dẫn đầy đủ và cụ thể trường hợp nào cần xử kín để không còn tình trạng quyết định theo ý chí của thẩm phán.
Theo quy định tại Điều 226 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về việc tuyên án: “Khi tuyên án mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy. Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của hội đồng xét xử đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo”. Quy định đọc bản án không có bất cập gì đối với những vụ án xét xử công khai, tuy nhiên đối với những vụ án xét xử kín việc đọc bản án như thế sẽ tiết lộ tất cả những gì được cho là bí mật, những cái được xem là đời tư bởi trong bản án đã trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng cứ xác định có tội...vì thế, khi đọc toàn bộ bản án như quy định hiện hành tác giả cho rằng chưa hợp lý. Theo tác giả nên thay đổi Điều 226 về Tuyên án theo hướng sau:
Điều 226. Tuyên án
“Khi tuyên án mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy. Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của hội đồng xét xử đọc bản án, riêng đối với những vụ án được xét xử kín chỉ đọc phần quyết định. Sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo. Nếu bị cáo không biết tiếng Việt, thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải đọc lại cho bị cáo nghe nội dung bản án đã tuyên sang thứ tiếng mà bị cáo biết”.
Quy định này sẽ giải quyết được mâu thuẫn giữa nội dung bản án và việc tuyên án trong thực tiễn hiện nay, bên cạnh đó những vấn đề cần được giữ kín vẫn được tuân thủ.
1. Nguyên tắc xét xử công khai trong tố tụng hình sự
1.1. Định nghĩa nguyên tắc xét xử công khai
Theo Từ điển tiếng Việt, nguyên tắc với nghĩa chung nhất được hiểu là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”[[3]]. Nguyên tắc được coi là cái không thể thiếu trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, bảo đảm cho những hoạt động đó đi đúng hướng và đạt hiệu quả cao.
Theo từ điển Luật học thì “xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng nhiệm vụ của Tòa án. Tòa án là cơ quan duy nhất của một nước đảm nhiệm chức năng xét xử, không ai có thể buộc tội mà không qua xét xử của Tòa án và kết quả xét xử phải được công bố bằng bản án”[[4]]. Vì xét xử là hoạt động của Tòa án, một hoạt động đặc trưng của việc thực hiện chức năng tư pháp của Nhà nước, nên hoạt động này được tiến hành theo cách thức hay thủ tục nhất định dựa trên những nguyên tắc tố tụng hết sức nghiêm ngặt. Bởi vì kết quả của nó ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan.
Trong từ điển Tiếng Việt “công khai” được giải thích như sau: “Công khai là việc không giữ kín mà để cho mọi người đều có thể biết”[[5]].Tính công khai trong công tác xét xử được hiểu là việc xét xử các vụ án được tiến hành một cách công khai, mọi người đều có thể tham dự và theo dõi diễn biến của phiên tòa xét xử.
Như vậy, có thể nói nguyên tắc xét xử công khai là những tư tưởng chỉ đạo đòi hỏi các nhà làm luật khi xây dựng pháp luật phải đảm bảo cho hoạt động xét xử được tiến hành một cách công khai. Đối với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thực hiện công tác xét xử thì pháp luật đòi hỏi phải tuân thủ tính công khai của hoạt động xét xử, trừ những trường hợp pháp luật có quy định xử kín.
Trong khoa học pháp lý hiện nay, nguyên tắc xét xử công khai có nhiều quan điểm khác nhau như sau:
Quan điểm thứ nhất[[6]]: Mọi hoạt động xét xử của Tòa án bao gồm xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử theo thủ tục đặc biệt (giám đốc thẩm, tái thẩm) đều phải tiến hành công khai. Quan điểm này cho rằng phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm giống một phiên toà xét xử thông thường, là nơi diễn ra tranh luận và quyết định hướng giải quyết vụ án.
Quan điểm thứ hai[[7]]: Nguyên tắc xét xử công khai chỉ áp dụng đối với thủ tục xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm, không áp dụng đối với thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm.
Quan điểm thứ ba[[8]]: Chỉ xét xử công khai đối với phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm bởi nguyên tắc cơ bản trong TTHS là thực hiện chế độ hai cấp xét xử, đối với giám đốc thẩm và tái thẩm Tòa án không phải là một cấp xét xử, không sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, Tòa án không mở phiên tòa mà chỉ là một cuộc họp nhằm xem xét tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị mà thôi.
Tại phiên họp giám đốc thẩm, hội đồng giám đốc thẩm chỉ căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ mà căn cứ vào đó, Tòa án cấp dưới đã xét xử vụ án; không xem xét chứng cứ, tài liệu mới. Vì vậy, hội đồng không cần thiết phải nghe người bị kết án hay người khác trình bày về các tình tiết của vụ án. Mặt khác, tại phiên họp, hội đồng giám đốc thẩm chỉ có nhiệm vụ xét nội dung kháng nghị, nếu có căn cứ thì hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra hay xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án; nếu thấy kháng nghị không có căn cứ thì giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, quyết định của hội đồng giám đốc thẩm không trực tiếp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án cũng như những người liên quan đến kháng nghị, nên sự có mặt của họ tại phiên toà giám đốc thẩm không bắt buộc. Mặt khác, lúc này án đã có hiệu lực pháp luật, đã hoặc đang thi hành, thậm chí đã thi hành xong, những người này không còn là người tham gia tố tụng và việc tham gia phiên toà không còn là quyền hoặc nghĩa vụ tố tụng của họ.
Đối với thủ tục tái thẩm, quan điểm về thủ tục này cũng tương đồng với thủ tục giám đốc thẩm. “Tái thẩm được hiểu không phải là một cấp xét xử mà là một thủ tục đặc biệt theo đó bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực được xem xét lại trên cơ sở có kháng nghị của người có thẩm quyền khi phát hiện có các tình tiết, chứng cứ mới mà các tình tiết, chứng cứ mới này chưa được xem xét và đánh giá ở trong các giai đoạn xét xử trước”[9].
Theo tác giả, cách hiểu theo quan điểm thứ hai và thứ ba chưa hợp lý vì tính chất đặt biệt của thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, nên tính công khai của nó bị giới hạn. Bởi trong trường hợp cần thiết, người bị kết án, người bào chữa và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị cũng được mời tham gia phiên hợp giám đốc thẩm và tái thẩm.
1.2. Nội dung nguyên tắc xét xử công khai trong Tố tụng hình sự Việt Nam
Thông qua Hiến pháp - đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất cùng với các văn bản pháp luật chuyên ngành đều quy định việc xét xử của Tòa án được tiến hành công khai, mọi công dân từ đủ 16 tuổi trở lên đều có thể tham dự và Tòa án phải công bố tất cả các quyết định được thông qua trong quá trình xét xử của vụ án. Tòa án xét xử công khai ở trụ sở Tòa án nhưng trong một số trường hợp cần phát huy mạnh mẽ tác dụng giáo dục và phòng ngừa của công tác xét xử, thì Tòa án có thể tiến hành các phiên tòa xét xử lưu động tại nơi xảy ra tội phạm. Nguyên tắc xét xử công khai không chỉ áp dụng đối với hoạt động xét xử sơ thẩm mà còn đối với cả hoạt động xét xử phúc thẩm[10]. Cụ thể hóa nguyên tắc này thông qua các hoạt động của Tòa án qua việc quy định về công khai quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời gian, địa điểm mở phiên tòa phải được niêm yết công khai trước khi xét xử; tại phiên tòa công khai các chứng cứ, tài liệu điều tra trong giai đoạn điều tra, bản cáo trạng… sau khi xét xử cần phải tuyên án công khai và bản án đó Tòa án có thể công bố trên báo chí, đài phát thanh hoặc bằng các phương tiện thông tin đại chúng khác để mọi người được biết. Để đảm bảo cho nguyên tắc công khai được thực hiện xuyên suốt, pháp luật TTHS cũng đã có những quy định cụ thể như quy định về thủ tục chuẩn bị xét xử, thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, tranh luận, tuyên án…
Tuy nhiên, đảm bảo nguyên tắc xét xử công khai không có nghĩa là trong tất cả mọi trường hợp với mọi vụ án đều xét xử công khai mà có những trường hợp đặc biệt cần giữ gìn bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ hay để bảo vệ người chưa thành niên thì Tòa án được tiến hành xử kín. Xử kín là một chế định đã được quy định ngay từ Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 đầu tiên của nước ta và được khẳng định lại tại Điều 18 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003. Việc quy định xử kín là hoàn toàn hợp lý, vì lợi ích của xã hội, vì lợi ích của đương sự, thể hiện sự tôn trọng của pháp luật đối với nhân phẩm danh dự của đương sự trong vụ án. Quy định này chẳng những không vi phạm quy định về nguyên tắc xét xử công khai mà nó còn phù hợp với xu hướng phát triển chung của luật pháp luật TTHS trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay hai khái niệm “thuần phong mỹ tục của dân tộc” và “bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ” vẫn chưa được cơ quan có thẩm quyền giải thích một cách cụ thể, chi tiết để áp dụng thống nhất. Vì thế, trên thực tế một vụ án có thuộc trường hợp xử kín hay không chủ yếu dựa vào đánh giá chủ quan của cơ quan xét xử.
1.3. Ý nghĩa nguyên tắc xét xử công khai trong Tố tụng hình sự Việt Nam
Nguyên tắc xét xử công khai là sự thể hiện cụ thể của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong TTHS. Vấn đề nhân quyền luôn là điểm nóng của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, các thế lực phản động và hiếu chiến luôn lấy vấn đề nhân quyền để kích động nhân dân, chống phá cách mạng. Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ phát triển và hội nhập, song Nhà nước luôn chú ý tới việc phát huy toàn diện quyền tự do dân chủ của công dân, bảo đảm các quyền con người. Việc Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan ghi nhận việc xét xử công khai cho bị cáo và có cơ chế đảm bảo thực hiện nguyên tắc này là nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng qua đó thể hiện bản chất ưu việt của Nhà nước ta.
Xét xử công khai là một trong những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 18 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003. Theo GS.TS Luật học Võ Khánh Vinh “Việc xét xử công khai thể hiện tính dân chủ nhằm tạo điều kiện cho nhân dân kiểm tra, giám sát được các hoạt động của Tòa án”[11], qua đó phát hiện những thiếu sót hoặc sai lầm trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, của công dân theo quy định của pháp luật. Như vậy có thể thấy xét xử công khai nhằm đảm bảo cơ chế kiểm tra và giám sát của dân đối với hoạt động xét xử. Sự kiểm tra giám sát của dân đối với hoạt động của nhà nước nói chung và hoạt động xét xử nói riêng, là đòi hỏi cấp bách của một xã hội dân chủ. Mọi hoạt động của Nhà nước không được công khai, triệt tiêu sự giám sát của dân đều có khả năng dẫn đến chuyên quyền, quan liêu và tệ hơn nữa là ở nơi đó “quốc nạn tham nhũng” được hoành hành.
Xét xử công khai nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của thẩm phán và hội thẩm nhân dân trước quần chúng[12]. Hoạt động xét xử tại phiên tòa là công khai trừ một số trường hợp do pháp luật quy định phải xử kín, vì vậy, ngoài hội đồng xét xử còn có đông đảo nhân dân theo dõi phiên tòa, nhất cử nhất động của thẩm phán - chủ tọa phiên tòa nói riêng, hội đồng xét xử nói chung đều được những người tham gia tố tụng, đương sự của vụ án và những người tham dự phiên tòa quan sát và đánh giá. Đối với các phiên tòa xét xử lưu động, việc lập kế hoạch xét xử phải được thẩm phán đặc biệt chú ý. Trong kế hoạch xét xử phải xác định trình tự xem xét các tình tiết, các chứng cứ; đánh giá, kiểm tra nguồn của các thông tin này. Việc lập kế hoạch xét xử có tác dụng tránh được những tác động tình cảm nhất định do từng loại thông tin gây ra; đảm bảo được tính liên tục, hệ thống, toàn diện và đầy đủ của việc nghiên cứu thông tin, đánh giá chứng cứ. Đồng thời dự đoán được những tình huống có thể xảy ra và chuẩn bị kế hoạch xử lý các tình huống đó một cách chủ động, linh hoạt tại phiên tòa xét xử lưu động. Phần lớn thẩm phán ý thức được ý nghĩa của việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử; tuy nhiên vẫn còn một số thẩm phán chưa ý thức được vấn đề này cho rằng việc giáo dục pháp luật là của nhà trường và xã hội chứ không phải là việc của thẩm phán. Thực tiễn xét xử của các Tòa án nước ta những năm qua cho thấy, còn những thẩm phán vi phạm pháp luật; có vụ án việc xét xử không đảm bảo tính khách quan, chất lượng xét xử còn thấp làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; làm cho uy tín của Tòa án bị ảnh hưởng nghiêm trọng; vai trò giáo dục công dân của Tòa án qua hoạt động xét xử không được phát huy. Vì thế, thông qua xét xử công khai cũng góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của thẩm phán và hội thẩm nhân dân trước quần chúng.
Ngoài ra xét xử công khai còn có tác dụng giáo dục ý thức pháp luật cho quần chúng nhân dân. Thông qua hoạt động xét xử là hình thức giáo dục đặc thù nhất và quan trọng nhất của Tòa án, thẩm phán luôn làm cho mọi người thấy rằng bất cứ sự việc vi phạm pháp luật nào đều bị xử lí theo pháp luật. Bằng thái độ khách quan, nghiêm túc của thẩm phán trong quá trình xét hỏi hay trong việc đảm bảo quyền bình đẳng của các bên trong tranh luận để tìm ra sự thật của vụ án cũng như đảm bảo đầy đủ, đúng yêu cầu các nguyên tắc của quá trình xét xử làm cho những người tham gia tố tụng và đông đảo quần chúng tham dự phiên tòa có thái độ đúng đắn với những hành vi vi phạm pháp luật, giáo dục họ ý thức tuân thủ các quy phạm pháp luật mà Nhà nước đã đề ra, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lí theo từng trường hợp cụ thể mà phiên tòa là một minh chứng cho sự nghiêm minh của pháp luật, qua đó góp phần tích cực vào công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
2. Những hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng nguyên tắc xét xử công khai trong Tố tụng Hình sự và kiến nghị hoàn thiện
Các cơ quan tiến hành tố tụng đã đạt được những thành quả đáng trân trọng khi áp dụng nguyên tắc công khai vào trong trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, đã xử lý công minh những hành vi phạm tội, thực hiện tốt công việc giáo dục ý thức pháp luật trong quần chúng nhân dân, góp phần không nhỏ vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, tình trạng điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn oan sai xảy ra, mặc dù số oan sai này không lớn so với số vụ án được đưa ra xét xử nhưng đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào cơ quan tư pháp nên cần phải được khắc phục kịp thời.
Nguyên nhân của tình trạng oan sai xuất phát từ mặt trái, hạn chế của nguyên tắc xét xử công khai, có nhiều nguyên nhân nhưng có thể quy về một số nguyên nhân chủ yếu sau: Do bất cập của pháp luật, do sai sót, hạn chế từ các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Mặt khác, các văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về áp dụng nguyên tắc xét xử công khai cũng chưa kịp thời, đầy đủ và chính xác. Vì vậy, trong thực tiễn áp dụng nguyên tắc xét xử công khai có những vướng mắc thể hiện ở một số vấn đề sau đây:
Theo quy định tại Điều 18 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, thì Tòa án có thể xử kín trong trường hợp cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ. Thế nhưng hiện nay, chưa có bất kỳ văn bản nào hướng dẫn cho trường hợp đặc biệt là như thế nào để tiến hành xử kín. Thực tiễn xét xử những vụ án liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật đời tư của đương sự thì chủ yếu dựa vào ý chí thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định dẫn đến có nhiều vụ án đáng lẽ ra phải được xét xử kín thế nhưng những vụ án này vẫn xét xử công khai, còn những vụ án cần phải xét xử công khai lại xử kín. Tác giả xin đưa ra một vài minh chứng:
Về thuần phong mỹ tục của dân tộc:
Ngày 08/05/2012 tại Tòa ánh nhân dân tỉnh Cà Mau đã xét xử sơ thẩm công khai Vụ án hình sự thụ lý số: 20/2011/HSST ngày 13/3/2012 đối với bị cáo Cao Văn Sơn sinh năm 1955 và bị hại Cao Kim Thanh sinh năm 1995. Bị cáo đã bị Viện kiểm soát nhân dân tỉnh Cà Mau truy tố về tội hiếp dâm trẻ em theo bản cáo trạng số 17/KSĐT-TA ngày 12/3/2012. Bị cáo là một người cha, đáng ra bị cáo phải yêu thương, chăm sóc, giáo dục để con mình phát triển toàn diện về mặt thể chất và tinh thần, nhưng bị cáo lai xâm hại tình dục chính đứa con ruột của mình nhiều lần trong khoảng thời gian dài, hành vi của bị cáo trái với đạo đức xã hội, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Với tư cách là một yếu tố thuộc giá trị truyền thống của dân tộc, những tư tưởng và tình cảm, những thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của một gia đình, một dân tộc nhất định được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, chính vì thế theo tác giả những vụ án như thế đáng lẽ ra phải được xét xử kín nhằm giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ gìn nét văn hóa của người Á Đông trong quan hệ với bạn bè quốc tế.
Về bí mật đời tư của đương sự:
Ngày 13/01/2015 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây tỉnh Tiền Giang đã mở phiên tòa công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 38/2014/HSST ngày 17/12/2014 đối với vị cáo Nguyễn Đức Việt sinh năm 1996 và bị hại Huỳnh Thị Ngọc Trâm sinh năm 2000, bị cáo bị Viện kiểm soát nhân dân huyện Gò Công Tây truy tố về tội giao cấu với trẻ em theo bản cáo trạng số 01/KSĐT-TA ngày 15/12/2014. Hành vi của các bị cáo tuy là đặt biệt nghiêm trọng vì đã xâm hại đến tình dục trẻ em, khách thể được luật hình sự bảo vệ, nhưng vụ án liên quan đến bí mật đời tư của các bị hại, hơn thế nữa các bị hại lại là trẻ vị thành niên, các bị hại còn tương lai rất dài, việc xét xử công khai hành vi của các bị cáo tuy có tác dụng giáo dục, phòng ngừa tội phạm, nhưng sẽ làm mất đi tương lai của một đứa trẻ, ảnh hưởng đến tâm sinh lý của trẻ vị thành niên, theo tác giả những vụ án như thế cần được xét xử kín để bảo vệ bí mật đời tư của bị hại.
Vì lẽ đó, theo tác giả ngoài việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) về nguyên tắc xét xử công khai mà tác giả đã đề cập ở trên, các cơ quan có thẩm quyền cần kịp thời các văn bản như: Thông tư liên tịch, Nghị quyết Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao... để hướng dẫn đầy đủ và cụ thể trường hợp nào cần xử kín để không còn tình trạng quyết định theo ý chí của thẩm phán.
Theo quy định tại Điều 226 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về việc tuyên án: “Khi tuyên án mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy. Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của hội đồng xét xử đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo”. Quy định đọc bản án không có bất cập gì đối với những vụ án xét xử công khai, tuy nhiên đối với những vụ án xét xử kín việc đọc bản án như thế sẽ tiết lộ tất cả những gì được cho là bí mật, những cái được xem là đời tư bởi trong bản án đã trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng cứ xác định có tội...vì thế, khi đọc toàn bộ bản án như quy định hiện hành tác giả cho rằng chưa hợp lý. Theo tác giả nên thay đổi Điều 226 về Tuyên án theo hướng sau:
Điều 226. Tuyên án
“Khi tuyên án mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy. Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của hội đồng xét xử đọc bản án, riêng đối với những vụ án được xét xử kín chỉ đọc phần quyết định. Sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo. Nếu bị cáo không biết tiếng Việt, thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải đọc lại cho bị cáo nghe nội dung bản án đã tuyên sang thứ tiếng mà bị cáo biết”.
Quy định này sẽ giải quyết được mâu thuẫn giữa nội dung bản án và việc tuyên án trong thực tiễn hiện nay, bên cạnh đó những vấn đề cần được giữ kín vẫn được tuân thủ.
Ngô Quang Vinh
[1] Trần Thế Vượng (1999), Những nguyên tắc cơ bản của TTHS Việt Nam và yêu cầu của việc sửa đổi toàn diện Bộ luật Tố tụng hình sự, kỷ yếu hội thảo của Ủy ban pháp luật - Quốc hội, tr.12.
[2] Nguyễn Ngọc Chí (2008), “Các nguyên tắc cơ bản trong Luật Tố tụng hình sự - những đề xuất sửa đổi, bổ sung”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật (24), 239-253.
[3] Nguyễn Quốc Việt (1995), Mấy vấn đề về nguyên tắc TTHS khi xây dựng Bộ luật Tố tụng hình sự, kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ của Viện khoa học xét xử, Viện kiểm soát nhân dân tối cao, tr.17.
[4] Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (1999), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.576.
[5] Trung tâm từ điển ngôn ngữ Việt Nam (1992), Từ điển Tiếng việt, Nxb. Khoa học xã hội, tr.128.
[6] Nguyễn Ngọc Khánh (2007), “Cần một cách nhìn mới về thủ tục giám đốc thẩm trong Tố tụng Hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, (20), 20-26.
[7] Nguyễn Ngọc Anh (2009), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.34.
[8] Phan Thị Thanh Mai (2006), Giám đốc thẩm trong Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, tr.87, tr. 165.
[9] Phạm Hồng Hải (2010), Thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm trong Tố tụng Hình sự ở Việt Nam, Học viện Tư pháp.
[10] Võ Khánh Vinh (2006), Giáo trình luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr.62.
[11] Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận Khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Nxb. Công an nhân dân, tr 42.
[12] Hoàng Thị Sơn, Bùi Kiên Điện (1999), Những nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.143.