![]() |
| Toàn cảnh Hội thảo. |
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh nhấn mạnh sự cần thiết phải nghiên cứu hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới, đồng thời thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và thi hành pháp luật theo tinh thần của Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới và Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Bên cạnh đó, Thứ trưởng bày tỏ mong muốn sẽ nhận được ý kiến trao đổi, thảo luận của các chuyên gia, nhà khoa học về thực trạng và kiến nghị hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam. Đây là những thông tin quan trọng giúp Bộ Tư pháp hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Đề án "Hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới".
![]() |
| Đồng chí Nguyễn Văn Cương, Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý trao đổi tại Hội thảo. |
Trình bày tổng quan về thực trạng cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng chí Nguyễn Văn Cương, Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý cho biết, trong những năm qua, công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật đã đạt được nhiều thành tựu. Theo đó, Việt Nam đã thiết lập được khung cấu trúc pháp luật cơ bản, khá đầy đủ của nhiều lĩnh vực trên nền tảng Hiến pháp và các bộ luật, luật có tính chất "rường cột". Hệ thống pháp luật hiện nay đã xác lập được sự phân tầng giữa các loại văn bản với trật tự thứ bậc hiệu lực pháp lý cơ bản phù hợp, rõ ràng, cụ thể: Hiến pháp có hiệu lực cao nhất, sau đó đến luật/pháp lệnh, tiếp đến là nghị định, đến thông tư, đến văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương, giúp xác lập trật tự pháp lý trong điều chỉnh hành vi của các chủ thể trong xã hội. Ngoài ra, việc xây dựng luật đã dần áp dụng các phương pháp lập pháp hiện đại như đánh giá tác động của chính sách, tham vấn ý kiến chuyên gia và người dân, bảo đảm tương thích với các điều ước quốc tế và trong chừng mực nhất định, có tính tới yếu tố hài hòa hóa với các thông lệ pháp luật tiến bộ ở các quốc gia trên thế giới, nhất là trong các lĩnh vực đầu tư, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, bảo vệ dữ liệu cá nhân...
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cấu trúc hệ thống pháp luật còn tồn tại một số hạn chế, cụ thể: Mức độ bao phủ của hệ thống pháp luật chưa theo kịp thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, nhất là tiến trình chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, các tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng và yêu cầu thực hiện vai trò kiến tạo phát triển của Nhà nước; mặc dù hệ thống pháp luật Việt Nam đã mở rộng nhanh chóng, bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần thể chế hóa đường lối của Đảng và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên, sự cân đối cả về số lượng và nội dung pháp luật giữa các ngành, lĩnh vực cụ thể cũng có những điểm cần được đánh giá kỹ; các quy định hiện hành mới chỉ dừng lại ở mức "thừa nhận về nguyên tắc" mà chưa có hướng dẫn cụ thể về phạm vi, trình tự và tiêu chí xác định tập quán được áp dụng. Đặc biệt, sự phân tầng quá mức trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã khiến quá trình thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật cụ thể bị kéo dài khi một chủ trương phải trải qua nhiều tầng thể chế hóa từ luật đến nghị định, thông tư, các văn bản triển khai của chính quyền địa phương. Mỗi tầng đều có thể phát sinh độ trễ do khác biệt về thẩm quyền, về cách hiểu hoặc do chờ đợi văn bản hướng dẫn thi hành. Tình trạng này không có lợi cho việc thực hiện yêu cầu bảo đảm thể chế hóa đầy đủ, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng và đưa chủ trương, đường lối này vào thực tiễn cuộc sống.
![]() |
| Đại biểu trao đổi tại Hội thảo. |
Trao đổi tại Hội thảo, có đại biểu cho rằng, Đề án hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật cần chỉ ra mối quan hệ giữa cấu trúc hệ thống pháp luật với các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Theo đại biểu, đây là các văn bản đặc thù, không phải luật pháp và nó là nguồn quan trọng bổ sung cho các văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở đó cũng cần khẳng định mối quan hệ này không có sự mâu thuẫn với nhau.
Chia sẻ nội dung liên quan đến hoàn thiện kỹ thuật thiết kế điều luật và quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, một số đại biểu cho biết, mặc dù hệ thống pháp luật đã nhiều lần được thực hiện đơn giản hóa, tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, hệ thống pháp luật vẫn gồm nhiều tầng lớp như Hiến pháp, nghị quyết của Quốc hội, văn bản của Chính phủ và các đạo luật. Đặc biệt, các văn bản do Quốc hội và Chính phủ ban hành lại có những nội dung thể hiện vấn đề của luật. Theo đó, đại biểu cho rằng, các văn bản này cần phải lưu ý thiết kế để bảo đảm vừa thể hiện tính chính sách, vừa thể hiện tính biện pháp và phù hợp với thẩm quyền ban hành.
![]() |
| Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh phát biểu kết luận Hội thảo. |
Phát biểu kết luận, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh gửi lời cảm ơn sự đóng góp đầy tâm huyết, trách nhiệm của các đại biểu tham dự; đồng thời đánh giá cao các ý kiến trao đổi tại Hội thảo. Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp sẽ tổng hợp, nghiên cứu tiếp thu để tiếp tục hoàn thiện Đề án.