Tư tưởng đổi mới công tác trợ giúp pháp lý (TGPL) xuất phát từ thực tiễn đánh giá những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, bất cập và xác định những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của công tác TGPL theo yêu cầu phát triển của đất nước. Được nhen nhóm từ năm 2014, sau khi thực hiện việc sơ kết 02 năm triển khai Chiến lược phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 678/QĐ-TTg ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ) và Bộ Tư pháp đã có báo cáo Thủ tướng Chính phủ (Báo cáo số 77/BC-BTP ngày 26/3/2014), trong đó có nêu vấn đề cần đổi mới công tác TGPL. Trước những tồn tại, hạn chế của công tác TGPL, Văn phòng Chủ tịch nước đã có Công văn số 379/VPCTN-TL ngày 25/3/2014 thông báo ý kiến của Chủ tịch nước và Văn phòng Chính phủ đã có Công văn số 2481/VPCP-PL ngày 11/4/2014 thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về công tác TGPL đã đưa ra yêu cầu cần có biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác TGPL trong thời gian tới. Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp đã chủ động nghiên cứu, xây dựng Đề án đổi mới công tác TGPL để khắc phục những hạn chế, bất cập. Đề án được nghiên cứu và xây dựng dựa trên thực trạng công tác TGPL, yêu cầu tăng cường năng lực, khả năng đáp ứng hiệu quả nhu cầu TGPL của người dân, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính của Ngành Tư pháp và tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới.
Ngày 01/6/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025 (Đề án). Đề án đã đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp để đổi mới về tổ chức thực hiện TGPL, nâng cao chất lượng người thực hiện TGPL, nâng cao chất lượng hoạt động TGPL, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong việc tiếp cận dịch vụ TGPL của Nhà nước. Nội dung Đề án gồm nhiều khía cạnh từ tổ chức đến hoạt động TGPL và đều lấy người được TGPL làm trung tâm, do đó, các nhiệm vụ, giải pháp đưa ra trong Đề án đều nhằm phục vụ người được TGPL, nâng cao chất lượng hoạt động TGPL để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL. Tuy nhiên, đổi mới là thay đổi nhận thức, cách làm trước đây, do đó đòi hỏi phải có sự quyết tâm và tương đối mất thời gian mới có thể lan tỏa và thuyết phục tất cả các đối tượng liên quan. Do đó, Bộ Tư pháp đã tổ chức các hội nghị triển khai trên toàn quốc và thông qua các cuộc kiểm tra, tọa đàm tại nhiều địa phương nhằm liên tục lan tỏa các tư tưởng đổi mới, thống nhất về mặt nhận thức, bảo đảm cho việc triển khai Đề án hiệu quả. Những khó khăn, vướng mắc đã được giải đáp hoặc tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, từ đó, tạo ra sự yên tâm khi thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đổi mới hoạt động TGPL.
Song song với việc triển khai các nhiệm vụ, giải pháp của Đề án, để giải quyết triệt để những vấn đề tồn tại của công tác TGPL, Bộ Tư pháp cũng đã nghiên cứu, tham mưu xây dựng Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) để luật hóa những tư tưởng, định hướng đúng đắn từ Đề án đổi mới công tác TGPL và từ yêu cầu thực tiễn. Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) được nghiên cứu, xây dựng từ năm 2016 đến tháng 6/2017 và ngày 20/6/2017, Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 3 (sau đây gọi là Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017) với tỷ lệ phiếu rất cao (100% đại biểu tham gia bỏ phiếu tán thành). Điều đó chứng tỏ nhiều tư tưởng đổi mới của Đề án đã phù hợp với yêu cầu thực tiễn nên tất cả các Đại biểu Quốc hội dự họp đã bỏ phiếu thông qua, nâng nhiều nội dung của Đề án đổi mới lên thành quy định của luật. Đến nay, sau hơn 04 năm triển khai Đề án đổi mới công tác TGPL và gần 02 năm triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, cũng là lúc chúng ta cần nhìn lại kết quả, những tư tưởng, định hướng đổi mới đã được triển khai trên thực tiễn, cụ thể như sau:
1. Những kết quả đạt được
1.1. Tập trung vào bản chất của trợ giúp pháp lý là thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý cho các đối tượng yếu thế
Có thể thấy rằng, một trong những định hướng đổi mới đúng đắn nhất là việc tập trung thực hiện vụ việc TGPL, trong đó chú trọng vụ việc tham gia tố tụng, bảo đảm cho các đối tượng thuộc diện được TGPL được cung cấp dịch vụ TGPL kịp thời, chất lượng.
Nếu ở giai đoạn trước tháng 6/2015, hoạt động TGPL vẫn còn dàn trải, chưa phản ánh được bản chất của nó là giúp đỡ người được TGPL khi họ có vướng mắc, tranh chấp pháp luật, thì từ sau tháng 6/2015 đến nay, đặc biệt là từ sau khi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 được ban hành, hoạt động này dần chuyển về đúng với bản chất vốn có của nó, không “chồng lấn” sang thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Cụ thể, triển khai Đề án và Luật Trợ giúp pháp lý, từ tháng 6/2015 đến 6/2019, trên toàn quốc thực hiện được 344.691 vụ việc, trong đó có 38.183 vụ việc tham gia tố tụng (chiếm 11%, tăng nhiều so với giai đoạn trước[1]). Số lượng vụ việc tham gia tố tụng tăng hằng năm, cụ thể: Năm 2016 là 7.807 vụ, năm 2017 là 10.058 vụ, năm 2018 là 11.860 vụ (tăng 52% so với năm 2016), 6 tháng đầu năm 2019 là 5.010 vụ (nhiều địa phương có số vụ việc tham gia tố tụng tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2018 như: Sơn La, Quảng Ngãi, Hưng Yên tăng 273%; Đồng Tháp tăng 195%...).
Bên cạnh đó, thực hiện giải pháp nêu tại Đề án, từ năm 2016 đến nay, hằng năm, Bộ Tư pháp đã ban hành chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng cho trợ giúp viên pháp lý (TGVPL). Xuất phát từ thực trạng số lượng án, số lượng người thuộc diện được TGPL nhiều mà số lượng vụ việc TGPL bằng hình thức tham gia tố tụng quá ít, việc giao chỉ tiêu đã góp phần thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của công tác TGPL là tập trung vụ việc tham gia tố tụng. Theo đó, các TGVPL sẽ ưu tiên dành quỹ thời gian cho thực hiện vụ việc - nội hàm chính của TGPL. Việc giao chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng hiện nay chỉ là giao mức tối thiểu (TGVPL được bổ nhiệm dưới 03 năm được giao thực hiện từ 05 - 09 vụ/năm), sau này khi TGVPL có kinh nghiệm, thực hiện vụ việc như là một công việc sẽ không cần giao chỉ tiêu nữa.
Đồng thời, để góp phần nâng cao chất lượng hoạt động TGPL và khuyến khích thực hiện nhiều vụ việc TGPL, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2015/NĐ-CP ngày 17/9/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2013/NĐ-CP ngày 05/02/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý, theo đó đã tăng mức bồi dưỡng vụ việc tham gia tố tụng cho người thực hiện TGPL và tiếp tục kế thừa tại Nghị định số 144/2018/NĐ-CP ngày 15/12/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. Hơn nữa, từ năm 2017 đến nay, theo Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg ngày 08/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016 - 2020 và hỗ trợ vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình (Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg), kinh phí trung ương đã bổ sung cho các địa phương chưa tự cân đối là 46.334.157.244 đồng để thực hiện hỗ trợ cho 7.874 vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình. Nhiều địa phương đã điều chỉnh cơ cấu chi theo hướng tăng chi cho vụ việc TGPL so với giai đoạn trước. Qua đó đã góp phần khuyến khích, động viên TGVPL, luật sư tích cực thực hiện các vụ việc TGPL trong tố tụng.
Hơn nữa, Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng có quy định cơ chế yêu cầu các cơ quan, người tiến hành tố tụng thông tin hoặc thông báo về vụ việc TGPL mà không phụ thuộc vào người được TGPL có yêu cầu TGPL hay không (quy định trước kia người được TGPL phải có yêu cầu mới chuyển gửi vụ việc), Trung tâm và chi nhánh của Trung tâm TGPL khi nhận được thông báo, thông tin TGPL có trách nhiệm kiểm tra diện người được TGPL. Với những quy định này, số lượng vụ việc TGPL đã tăng lên đáng kể, hạn chế tình trạng bỏ sót người được TGPL. Ngoài ra, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 có các điều luật bảo đảm ngân sách[2] và nguồn lực thực hiện TGPL[3], bởi vậy, theo nắm bắt của Bộ Tư pháp thì chưa có trường hợp nào bị từ chối thực hiện TGPL do thiếu kinh phí hoặc nhân lực.
Giai đoạn trước tháng 6/2015, ở một số tỉnh, TGVPL chưa thực hiện vụ việc tố tụng, đến nay, tất cả TGVPL đều đã thực hiện vụ việc tố tụng. Triển khai chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng hằng năm do Bộ Tư pháp ban hành cùng với việc tăng mức bồi dưỡng vụ việc tố tụng, các TGVPL đều hăng say thực hiện vụ việc được phân công, có nhiều TGVPL đã chủ động tiếp cận nhu cầu TGPL của người dân. Kết quả, số vụ việc tham gia tố tụng do TGVPL thực hiện năm sau tăng so với năm trước (năm 2017 tăng 1.077 vụ so với năm 2016; năm 2018 tăng 1.146 vụ so với năm 2017, tương đương 14,5%). Đến hết năm 2018, đa số TGVPL hoàn thành chỉ tiêu (83,3% đạt chỉ tiêu trở lên, trong đó 36,1% đạt chỉ tiêu tốt), số TGVPL không đạt chỉ tiêu ngày càng giảm mặc dù chỉ tiêu do Bộ giao tăng hàng năm (16,7% không đạt chỉ tiêu, giảm 5,8% so với năm 2017). Chất lượng vụ việc TGPL ngày càng tăng lên, có nhiều vụ việc hiệu quả, người được TGPL được tuyên mức án giảm hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện kiểm sát hoặc được chuyển khung hình phạt nhẹ hơn hoặc sang tội nhẹ hơn hoặc được tuyên vô tội. Thông qua các vụ việc tham gia tố tụng, kỹ năng, kinh nghiệm và bản lĩnh của đội ngũ người thực hiện TGPL được nâng lên rõ rệt. Có thể nói, đội ngũ TGVPL đang dần khẳng định được vị trí, vai trò của mình, được các cơ quan tiến hành tố tụng, người được TGPL ghi nhận và đánh giá cao. Những kết quả thực tiễn trong thời gian qua đã củng cố thêm định hướng tập trung vào vụ việc TGPL, nhất là trong vụ việc tham gia tố tụng - thời điểm mà người dân cần sự giúp đỡ của Nhà nước nhất là hoàn toàn đúng đắn.
1.2. Nâng cao năng lực người thực hiện trợ giúp pháp lý
Một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng vụ việc TGPL thời gian trước đây chưa được đánh giá cao là do trình độ, năng lực của một số người thực hiện TGPL còn hạn chế. Nhận diện được vấn đề đó, Bộ Tư pháp đã xác định muốn nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL thì một trong những mục tiêu cần thiết là phải nâng cao chất lượng người thực hiện TGPL.
Từ khi triển khai Đến án đến nay, hằng năm, các cơ quan ở trung ương và địa phương đã tổ chức nhiều lớp tập huấn kỹ năng TGPL trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự, hành chính; kỹ năng TGPL cho người khuyết tật có khó khăn về tài chính; kỹ năng TGPL cho nạn nhân bạo lực phụ nữ, trẻ em gái... cho đội ngũ người thực hiện TGPL. Với các nội dung tập huấn thiết thực, bổ ích do đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm giảng dạy, các lớp tập huấn đã thu hút nhiều lượt người thực hiện TGPL tham gia. Các TGVPL được đào tạo bài bản, tận tâm, được trang bị đầy đủ kỹ năng TGPL cho các đối tượng yếu thế, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL trong các vụ việc cụ thể.
Đặc biệt, theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, tiêu chuẩn TGVPL đã được nâng cao, quy định ngang bằng với tiêu chuẩn của luật sư. Thời gian qua, các địa phương đều thực hiện rà soát đội ngũ TGVPL và chuyên viên để đào tạo, bồi dưỡng. Từ năm 2018 đến nay, Bộ Tư pháp đã tổ chức thành công kỳ thi hết tập sự TGPL và qua đó đã công nhận hết tập sự TGPL cho 43 người; tổ chức 02 lớp bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp TGVPL hạng II (hiện đang tổ chức lớp thứ ba), dự kiến trong năm 2019 sẽ tổ chức kỳ thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp TGVPL hạng II. Ngoài ra, từ năm 2017 đến nay, theo Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg, ngân sách trung ương đã hỗ trợ kinh phí để thực hiện tập huấn tăng cường năng lực cho người thực hiện TGPL và hỗ trợ cho viên chức của Trung tâm tại các địa phương có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn tham gia khóa đào tạo nghề luật sư.
1.3. Huy động các tổ chức xã hội, luật sư có chất lượng tham gia trợ giúp pháp lý
Như đã nêu ở trên, theo tinh thần Đề án, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ ban hành quy định tăng mức bồi dưỡng thực hiện vụ việc tham gia tố tụng cho luật sư. Đặc biệt, thể chế hóa tinh thần đổi mới về việc huy động luật sư có kinh nghiệm, trình độ, các tổ chức hành nghề luật sư có uy tín tham gia thực hiện TGPL để người dân có quyền tiếp cận dịch vụ TGPL có chất lượng, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản hướng dẫn chi tiết đã quy định việc tham gia TGPL theo hai hình thức là ký hợp đồng và đăng ký tham gia theo các nội dung: Điều kiện, tiêu chuẩn và việc thù lao, chi phí khi thực hiện vụ việc TGPL. Như vậy, bên cạnh việc đăng ký tham gia TGPL, Luật quy định thêm cơ chế ký hợp đồng và được chi trả thù lao khi thực hiện TGPL đã tạo thêm cơ hội, thu hút được những tổ chức chất lượng tham gia cung cấp dịch vụ TGPL. Triển khai các quy định về đa dạng hóa chủ thể thực hiện TGPL nêu trên, tính đến hết tháng 6/2019, toàn quốc có 33 tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL với các Sở Tư pháp thực hiện TGPL (trong đó có 24 tổ chức hành nghề luật sư, 09 tổ chức tư vấn pháp luật); 161 tổ chức đăng ký tham gia TGPL với các Sở Tư pháp (trong đó có 128 tổ chức hành nghề luật sư, 33 tổ chức tư vấn pháp luật); 511 luật sư ký hợp đồng thực hiện TGPL với các Trung tâm TGPL nhà nước. Bên cạnh đó, theo tinh thần từ Đề án và thực hiện quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, các Sở Tư pháp đã công bố danh sách người thực hiện TGPL và tổ chức thực hiện TGPL tại địa phương, đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp và gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp, đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
Ngoài ra, để đẩy mạnh đa dạng hóa chủ thể tham gia TGPL, tạo điều kiện cho người được TGPL được thụ hưởng dịch vụ TGPL có chất lượng, Bộ Tư pháp và Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã ký Quy chế phối hợp số 4617/QCPH/BTP-LĐLSVN ngày 28/12/2016 về hoạt động TGPL của luật sư. Đến nay, hầu hết các địa phương đã ký Quy chế phối hợp với Đoàn luật sư tỉnh/thành phố. Một số địa phương tuy không ban hành Quy chế nhưng có phối hợp khá tốt với Đoàn luật sư địa phương trong công tác TGPL.
1.4. Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý nhà nước ngày càng tinh gọn và hoàn chỉnh
Trong bối cảnh thực hiện chủ trương tinh giản biên chế và nâng cao hiệu quả chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, ở trung ương và địa phương đều có các giải pháp kiện toàn tổ chức bộ máy. Từ khi triển khai Đề án và triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, các Trung tâm TGPL đều thực hiện rà soát các chi nhánh của Trung tâm đã thành lập căn cứ vào nhu cầu TGPL, nguồn lực thực hiện TGPL và hiệu quả hoạt động. Qua đó đã giải thể, sáp nhập một số chi nhánh TGPL không đủ nguồn lực hoặc hoạt động không hiệu quả hoặc địa phương ít có nhu cầu TGPL. Trên toàn quốc, tính đến 31/12/2014, có 201 chi nhánh và đến tháng 6/2019 còn 147 chi nhánh TGPL. So với giai đoạn trước, đến nay tổ chức của Trung tâm TGPL có tinh gọn hơn nhưng tỷ lệ TGVPL trên tổng số biên chế lại tăng lên[4], chất lượng người thực hiện TGPL được nâng cao và hiệu quả vụ việc TGPL cũng tăng như đã nêu ở phần trên.
Ngoài ra, thực hiện nhiệm vụ theo Đề án, ở nhiều địa phương đã không thành lập mới câu lạc bộ TGPL, đối với các câu lạc bộ TGPL đang tồn tại nhưng hoạt động không hiệu quả thì giải thể hoặc sáp nhập với các câu lạc bộ khác ở địa phương. Đến nay, các văn bản về TGPL hiện hành không còn điều chỉnh về câu lạc bộ TGPL.
1.5. Tăng cường truyền thông về công tác trợ giúp pháp lý, ứng dụng công nghệ thông tin và thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý
Mặc dù công tác TGPL được triển khai từ năm 1997 nhưng đến nay vẫn còn nhiều đối tượng được hưởng chính sách TGPL chưa biết đến hoạt động này và quyền được tiếp cận dịch vụ TGPL miễn phí của Nhà nước. Do đó, để tăng cường nhận thức về TGPL của người dân, nhất là ở cơ sở, trong thời gian qua, các cơ quan ở trung ương và địa phương đã triển khai nhiều phương thức truyền thông khác nhau như: Thông qua bảng thông tin TGPL, hộp tin về TGPL, tờ gấp TGPL, chuyên trang, chuyên mục, phóng sự về hoạt động TGPL hoặc vụ việc TGPL điển hình trên các đài, báo, truyền hình... Đồng thời, Trang thông tin điện tử TGPL đã được nâng cấp, hoàn thiện, kịp thời cung cấp văn bản chỉ đạo, điều hành của trung ương và địa phương, là diễn đàn rộng rãi để trao đổi thông tin, kinh nghiệm, kỹ năng TGPL trên toàn quốc. Đây cũng là một kênh thông tin để người dân biết đến quyền được TGPL, tổ chức và hoạt động TGPL. Hơn nữa, từ năm 2016 đến nay, theo Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg, ngân sách trung ương đã bổ sung kinh phí cho 37 địa phương có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn có nhu cầu thiết lập đường dây nóng về TGPL để người dân liên hệ.
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong toàn hệ thống tổ chức TGPL, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã đưa Hệ thống quản lý tổ chức và hoạt động TGPL đi vào hoạt động. Thông qua đó cho phép nắm bắt, theo dõi, lưu giữ, tra cứu và quản lý được toàn bộ các thông tin về tổ chức và hoạt động TGPL bảo đảm kịp thời, chính xác, tiết kiệm thời gian và chi phí, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác tổng hợp, thống kê, báo cáo và theo dõi, đánh giá chất lượng TGPL, từ đó đề xuất những chính sách, giải pháp TGPL phù hợp. Đồng thời, việc ứng dụng hệ thống này sẽ là cầu nối giữa các cơ quan quản lý nhà nước về TGPL với các tổ chức thực hiện TGPL từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, để việc vận hành đạt hiệu quả cao, trong thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống phần mềm này nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế.
Trong bối cảnh Nhà nước đang tập trung đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, thời gian qua, lĩnh vực TGPL cũng đã thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là người được TGPL. Với số lượng thủ tục hành chính không nhiều và được phân cấp hoàn toàn về địa phương thực hiện (chủ yếu là cấp tỉnh) nên thủ tục hành chính trong lĩnh vực TGPL về cơ bản đã đáp ứng mục đích, yêu cầu của Nghị quyết số 30c/NQ-CP của Chính phủ, Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 - 2020, Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 04/7/2017 của Chính phủ về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
2. Đánh giá chung
Có thể nói rằng, việc Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 01/6/2015 phê duyệt Đề án đổi mới công tác TGPL đã tạo cơ sở cho việc đổi mới công tác TGPL nhằm mang lại lợi ích cho Nhà nước, xã hội và trực tiếp là đối tượng được thụ hưởng dịch vụ TGPL. Các nhóm nhiệm vụ, giải pháp đều xuất phát từ quan điểm lấy người được TGPL làm trung tâm. Mặc dù, sau khi Đề án được ban hành, việc triển khai Đề án cũng có gặp một số khó khăn, trở ngại trong nhận thức, tuy nhiên, với sự chỉ đạo quyết liệt của Lãnh đạo Bộ Tư pháp và sự vào cuộc sát sao của Cục Trợ giúp pháp lý, đến nay, các địa phương đã tích cực triển khai Đề án và thực tiễn đã chứng minh hiệu quả công tác TGPL được nâng lên một cách rõ rệt. Một số nhiệm vụ, giải pháp liên quan đến mô hình tổ chức không triển khai thực hiện theo Đề án đổi mới nhưng mô hình tổ chức của hệ thống TGPL đã được nghiên cứu và quy định rất rõ trong Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
Từ những kết quả như đã nêu ở phần trên, có thể khẳng định, việc đổi mới công tác TGPL trên thực tế trong thời gian qua là cần thiết và đã có những thành công mang tính đột phá. Nhiều nhóm giải pháp, nhiệm vụ đã được triển khai hiệu quả, “hình ảnh” dịch vụ TGPL trong mấy năm qua đã đổi mới phù hợp với bản chất của dịch vụ TGPL, góp phần bảo đảm tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL. Vì vậy, các định hướng đúng đắn của Đề án đã được thể hiện trong Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành và cần tiếp tục triển khai trên thực tế. Đến nay, cơ sở pháp lý cho sự phát triển bền vững của công tác TGPL đã tương đối đầy đủ. Các địa phương đều đã thể hiện sự nhất trí, đồng tình cao đối với chính sách TGPL hiện hành. Công tác TGPL đã ổn định, dần đi vào chiều sâu, thực chất, bảo đảm quyền lợi tốt nhất cho các đối tượng yếu thế trong các vụ án hình sự, dân sự... được người dân tin tưởng.
[1]. Theo Báo cáo tổng kết 08 năm triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý từ năm 2007 - 2014, số vụ việc tham gia tố tụng chiếm 5,6% tổng số vụ việc TGPL.
[2]. Điều 5 quy định về nguồn tài chính cho công tác TGPL.
[3]. Điều 14 quy định về hợp đồng thực hiện TGPL (thậm chí có thể ký hợp đồng với luật sư, tổ chức hành nghề luật sư ngoài tỉnh nếu địa phương không đáp ứng được).
[4]. Năm 2014, cả nước có 1.313 người làm việc tại các Trung tâm TGPL với 572 TGVPL và 741 người làm việc khác; đến hết năm 2018, cả nước có 1.218 người làm việc tại các Trung tâm TGPL với 645 TGVPL và 573 người làm việc khác.
Ngày 01/6/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025 (Đề án). Đề án đã đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp để đổi mới về tổ chức thực hiện TGPL, nâng cao chất lượng người thực hiện TGPL, nâng cao chất lượng hoạt động TGPL, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong việc tiếp cận dịch vụ TGPL của Nhà nước. Nội dung Đề án gồm nhiều khía cạnh từ tổ chức đến hoạt động TGPL và đều lấy người được TGPL làm trung tâm, do đó, các nhiệm vụ, giải pháp đưa ra trong Đề án đều nhằm phục vụ người được TGPL, nâng cao chất lượng hoạt động TGPL để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL. Tuy nhiên, đổi mới là thay đổi nhận thức, cách làm trước đây, do đó đòi hỏi phải có sự quyết tâm và tương đối mất thời gian mới có thể lan tỏa và thuyết phục tất cả các đối tượng liên quan. Do đó, Bộ Tư pháp đã tổ chức các hội nghị triển khai trên toàn quốc và thông qua các cuộc kiểm tra, tọa đàm tại nhiều địa phương nhằm liên tục lan tỏa các tư tưởng đổi mới, thống nhất về mặt nhận thức, bảo đảm cho việc triển khai Đề án hiệu quả. Những khó khăn, vướng mắc đã được giải đáp hoặc tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, từ đó, tạo ra sự yên tâm khi thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đổi mới hoạt động TGPL.
Song song với việc triển khai các nhiệm vụ, giải pháp của Đề án, để giải quyết triệt để những vấn đề tồn tại của công tác TGPL, Bộ Tư pháp cũng đã nghiên cứu, tham mưu xây dựng Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) để luật hóa những tư tưởng, định hướng đúng đắn từ Đề án đổi mới công tác TGPL và từ yêu cầu thực tiễn. Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) được nghiên cứu, xây dựng từ năm 2016 đến tháng 6/2017 và ngày 20/6/2017, Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 3 (sau đây gọi là Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017) với tỷ lệ phiếu rất cao (100% đại biểu tham gia bỏ phiếu tán thành). Điều đó chứng tỏ nhiều tư tưởng đổi mới của Đề án đã phù hợp với yêu cầu thực tiễn nên tất cả các Đại biểu Quốc hội dự họp đã bỏ phiếu thông qua, nâng nhiều nội dung của Đề án đổi mới lên thành quy định của luật. Đến nay, sau hơn 04 năm triển khai Đề án đổi mới công tác TGPL và gần 02 năm triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, cũng là lúc chúng ta cần nhìn lại kết quả, những tư tưởng, định hướng đổi mới đã được triển khai trên thực tiễn, cụ thể như sau:
1. Những kết quả đạt được
1.1. Tập trung vào bản chất của trợ giúp pháp lý là thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý cho các đối tượng yếu thế
Có thể thấy rằng, một trong những định hướng đổi mới đúng đắn nhất là việc tập trung thực hiện vụ việc TGPL, trong đó chú trọng vụ việc tham gia tố tụng, bảo đảm cho các đối tượng thuộc diện được TGPL được cung cấp dịch vụ TGPL kịp thời, chất lượng.
Nếu ở giai đoạn trước tháng 6/2015, hoạt động TGPL vẫn còn dàn trải, chưa phản ánh được bản chất của nó là giúp đỡ người được TGPL khi họ có vướng mắc, tranh chấp pháp luật, thì từ sau tháng 6/2015 đến nay, đặc biệt là từ sau khi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 được ban hành, hoạt động này dần chuyển về đúng với bản chất vốn có của nó, không “chồng lấn” sang thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Cụ thể, triển khai Đề án và Luật Trợ giúp pháp lý, từ tháng 6/2015 đến 6/2019, trên toàn quốc thực hiện được 344.691 vụ việc, trong đó có 38.183 vụ việc tham gia tố tụng (chiếm 11%, tăng nhiều so với giai đoạn trước[1]). Số lượng vụ việc tham gia tố tụng tăng hằng năm, cụ thể: Năm 2016 là 7.807 vụ, năm 2017 là 10.058 vụ, năm 2018 là 11.860 vụ (tăng 52% so với năm 2016), 6 tháng đầu năm 2019 là 5.010 vụ (nhiều địa phương có số vụ việc tham gia tố tụng tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2018 như: Sơn La, Quảng Ngãi, Hưng Yên tăng 273%; Đồng Tháp tăng 195%...).
Bên cạnh đó, thực hiện giải pháp nêu tại Đề án, từ năm 2016 đến nay, hằng năm, Bộ Tư pháp đã ban hành chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng cho trợ giúp viên pháp lý (TGVPL). Xuất phát từ thực trạng số lượng án, số lượng người thuộc diện được TGPL nhiều mà số lượng vụ việc TGPL bằng hình thức tham gia tố tụng quá ít, việc giao chỉ tiêu đã góp phần thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của công tác TGPL là tập trung vụ việc tham gia tố tụng. Theo đó, các TGVPL sẽ ưu tiên dành quỹ thời gian cho thực hiện vụ việc - nội hàm chính của TGPL. Việc giao chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng hiện nay chỉ là giao mức tối thiểu (TGVPL được bổ nhiệm dưới 03 năm được giao thực hiện từ 05 - 09 vụ/năm), sau này khi TGVPL có kinh nghiệm, thực hiện vụ việc như là một công việc sẽ không cần giao chỉ tiêu nữa.
Đồng thời, để góp phần nâng cao chất lượng hoạt động TGPL và khuyến khích thực hiện nhiều vụ việc TGPL, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 80/2015/NĐ-CP ngày 17/9/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2013/NĐ-CP ngày 05/02/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý, theo đó đã tăng mức bồi dưỡng vụ việc tham gia tố tụng cho người thực hiện TGPL và tiếp tục kế thừa tại Nghị định số 144/2018/NĐ-CP ngày 15/12/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. Hơn nữa, từ năm 2017 đến nay, theo Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg ngày 08/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016 - 2020 và hỗ trợ vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình (Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg), kinh phí trung ương đã bổ sung cho các địa phương chưa tự cân đối là 46.334.157.244 đồng để thực hiện hỗ trợ cho 7.874 vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình. Nhiều địa phương đã điều chỉnh cơ cấu chi theo hướng tăng chi cho vụ việc TGPL so với giai đoạn trước. Qua đó đã góp phần khuyến khích, động viên TGVPL, luật sư tích cực thực hiện các vụ việc TGPL trong tố tụng.
Hơn nữa, Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng có quy định cơ chế yêu cầu các cơ quan, người tiến hành tố tụng thông tin hoặc thông báo về vụ việc TGPL mà không phụ thuộc vào người được TGPL có yêu cầu TGPL hay không (quy định trước kia người được TGPL phải có yêu cầu mới chuyển gửi vụ việc), Trung tâm và chi nhánh của Trung tâm TGPL khi nhận được thông báo, thông tin TGPL có trách nhiệm kiểm tra diện người được TGPL. Với những quy định này, số lượng vụ việc TGPL đã tăng lên đáng kể, hạn chế tình trạng bỏ sót người được TGPL. Ngoài ra, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 có các điều luật bảo đảm ngân sách[2] và nguồn lực thực hiện TGPL[3], bởi vậy, theo nắm bắt của Bộ Tư pháp thì chưa có trường hợp nào bị từ chối thực hiện TGPL do thiếu kinh phí hoặc nhân lực.
Giai đoạn trước tháng 6/2015, ở một số tỉnh, TGVPL chưa thực hiện vụ việc tố tụng, đến nay, tất cả TGVPL đều đã thực hiện vụ việc tố tụng. Triển khai chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng hằng năm do Bộ Tư pháp ban hành cùng với việc tăng mức bồi dưỡng vụ việc tố tụng, các TGVPL đều hăng say thực hiện vụ việc được phân công, có nhiều TGVPL đã chủ động tiếp cận nhu cầu TGPL của người dân. Kết quả, số vụ việc tham gia tố tụng do TGVPL thực hiện năm sau tăng so với năm trước (năm 2017 tăng 1.077 vụ so với năm 2016; năm 2018 tăng 1.146 vụ so với năm 2017, tương đương 14,5%). Đến hết năm 2018, đa số TGVPL hoàn thành chỉ tiêu (83,3% đạt chỉ tiêu trở lên, trong đó 36,1% đạt chỉ tiêu tốt), số TGVPL không đạt chỉ tiêu ngày càng giảm mặc dù chỉ tiêu do Bộ giao tăng hàng năm (16,7% không đạt chỉ tiêu, giảm 5,8% so với năm 2017). Chất lượng vụ việc TGPL ngày càng tăng lên, có nhiều vụ việc hiệu quả, người được TGPL được tuyên mức án giảm hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện kiểm sát hoặc được chuyển khung hình phạt nhẹ hơn hoặc sang tội nhẹ hơn hoặc được tuyên vô tội. Thông qua các vụ việc tham gia tố tụng, kỹ năng, kinh nghiệm và bản lĩnh của đội ngũ người thực hiện TGPL được nâng lên rõ rệt. Có thể nói, đội ngũ TGVPL đang dần khẳng định được vị trí, vai trò của mình, được các cơ quan tiến hành tố tụng, người được TGPL ghi nhận và đánh giá cao. Những kết quả thực tiễn trong thời gian qua đã củng cố thêm định hướng tập trung vào vụ việc TGPL, nhất là trong vụ việc tham gia tố tụng - thời điểm mà người dân cần sự giúp đỡ của Nhà nước nhất là hoàn toàn đúng đắn.
1.2. Nâng cao năng lực người thực hiện trợ giúp pháp lý
Một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng vụ việc TGPL thời gian trước đây chưa được đánh giá cao là do trình độ, năng lực của một số người thực hiện TGPL còn hạn chế. Nhận diện được vấn đề đó, Bộ Tư pháp đã xác định muốn nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL thì một trong những mục tiêu cần thiết là phải nâng cao chất lượng người thực hiện TGPL.
Từ khi triển khai Đến án đến nay, hằng năm, các cơ quan ở trung ương và địa phương đã tổ chức nhiều lớp tập huấn kỹ năng TGPL trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự, hành chính; kỹ năng TGPL cho người khuyết tật có khó khăn về tài chính; kỹ năng TGPL cho nạn nhân bạo lực phụ nữ, trẻ em gái... cho đội ngũ người thực hiện TGPL. Với các nội dung tập huấn thiết thực, bổ ích do đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm giảng dạy, các lớp tập huấn đã thu hút nhiều lượt người thực hiện TGPL tham gia. Các TGVPL được đào tạo bài bản, tận tâm, được trang bị đầy đủ kỹ năng TGPL cho các đối tượng yếu thế, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL trong các vụ việc cụ thể.
Đặc biệt, theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, tiêu chuẩn TGVPL đã được nâng cao, quy định ngang bằng với tiêu chuẩn của luật sư. Thời gian qua, các địa phương đều thực hiện rà soát đội ngũ TGVPL và chuyên viên để đào tạo, bồi dưỡng. Từ năm 2018 đến nay, Bộ Tư pháp đã tổ chức thành công kỳ thi hết tập sự TGPL và qua đó đã công nhận hết tập sự TGPL cho 43 người; tổ chức 02 lớp bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp TGVPL hạng II (hiện đang tổ chức lớp thứ ba), dự kiến trong năm 2019 sẽ tổ chức kỳ thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp TGVPL hạng II. Ngoài ra, từ năm 2017 đến nay, theo Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg, ngân sách trung ương đã hỗ trợ kinh phí để thực hiện tập huấn tăng cường năng lực cho người thực hiện TGPL và hỗ trợ cho viên chức của Trung tâm tại các địa phương có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn tham gia khóa đào tạo nghề luật sư.
1.3. Huy động các tổ chức xã hội, luật sư có chất lượng tham gia trợ giúp pháp lý
Như đã nêu ở trên, theo tinh thần Đề án, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ ban hành quy định tăng mức bồi dưỡng thực hiện vụ việc tham gia tố tụng cho luật sư. Đặc biệt, thể chế hóa tinh thần đổi mới về việc huy động luật sư có kinh nghiệm, trình độ, các tổ chức hành nghề luật sư có uy tín tham gia thực hiện TGPL để người dân có quyền tiếp cận dịch vụ TGPL có chất lượng, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản hướng dẫn chi tiết đã quy định việc tham gia TGPL theo hai hình thức là ký hợp đồng và đăng ký tham gia theo các nội dung: Điều kiện, tiêu chuẩn và việc thù lao, chi phí khi thực hiện vụ việc TGPL. Như vậy, bên cạnh việc đăng ký tham gia TGPL, Luật quy định thêm cơ chế ký hợp đồng và được chi trả thù lao khi thực hiện TGPL đã tạo thêm cơ hội, thu hút được những tổ chức chất lượng tham gia cung cấp dịch vụ TGPL. Triển khai các quy định về đa dạng hóa chủ thể thực hiện TGPL nêu trên, tính đến hết tháng 6/2019, toàn quốc có 33 tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL với các Sở Tư pháp thực hiện TGPL (trong đó có 24 tổ chức hành nghề luật sư, 09 tổ chức tư vấn pháp luật); 161 tổ chức đăng ký tham gia TGPL với các Sở Tư pháp (trong đó có 128 tổ chức hành nghề luật sư, 33 tổ chức tư vấn pháp luật); 511 luật sư ký hợp đồng thực hiện TGPL với các Trung tâm TGPL nhà nước. Bên cạnh đó, theo tinh thần từ Đề án và thực hiện quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, các Sở Tư pháp đã công bố danh sách người thực hiện TGPL và tổ chức thực hiện TGPL tại địa phương, đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp và gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp, đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
Ngoài ra, để đẩy mạnh đa dạng hóa chủ thể tham gia TGPL, tạo điều kiện cho người được TGPL được thụ hưởng dịch vụ TGPL có chất lượng, Bộ Tư pháp và Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã ký Quy chế phối hợp số 4617/QCPH/BTP-LĐLSVN ngày 28/12/2016 về hoạt động TGPL của luật sư. Đến nay, hầu hết các địa phương đã ký Quy chế phối hợp với Đoàn luật sư tỉnh/thành phố. Một số địa phương tuy không ban hành Quy chế nhưng có phối hợp khá tốt với Đoàn luật sư địa phương trong công tác TGPL.
1.4. Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý nhà nước ngày càng tinh gọn và hoàn chỉnh
Trong bối cảnh thực hiện chủ trương tinh giản biên chế và nâng cao hiệu quả chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, ở trung ương và địa phương đều có các giải pháp kiện toàn tổ chức bộ máy. Từ khi triển khai Đề án và triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, các Trung tâm TGPL đều thực hiện rà soát các chi nhánh của Trung tâm đã thành lập căn cứ vào nhu cầu TGPL, nguồn lực thực hiện TGPL và hiệu quả hoạt động. Qua đó đã giải thể, sáp nhập một số chi nhánh TGPL không đủ nguồn lực hoặc hoạt động không hiệu quả hoặc địa phương ít có nhu cầu TGPL. Trên toàn quốc, tính đến 31/12/2014, có 201 chi nhánh và đến tháng 6/2019 còn 147 chi nhánh TGPL. So với giai đoạn trước, đến nay tổ chức của Trung tâm TGPL có tinh gọn hơn nhưng tỷ lệ TGVPL trên tổng số biên chế lại tăng lên[4], chất lượng người thực hiện TGPL được nâng cao và hiệu quả vụ việc TGPL cũng tăng như đã nêu ở phần trên.
Ngoài ra, thực hiện nhiệm vụ theo Đề án, ở nhiều địa phương đã không thành lập mới câu lạc bộ TGPL, đối với các câu lạc bộ TGPL đang tồn tại nhưng hoạt động không hiệu quả thì giải thể hoặc sáp nhập với các câu lạc bộ khác ở địa phương. Đến nay, các văn bản về TGPL hiện hành không còn điều chỉnh về câu lạc bộ TGPL.
1.5. Tăng cường truyền thông về công tác trợ giúp pháp lý, ứng dụng công nghệ thông tin và thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý
Mặc dù công tác TGPL được triển khai từ năm 1997 nhưng đến nay vẫn còn nhiều đối tượng được hưởng chính sách TGPL chưa biết đến hoạt động này và quyền được tiếp cận dịch vụ TGPL miễn phí của Nhà nước. Do đó, để tăng cường nhận thức về TGPL của người dân, nhất là ở cơ sở, trong thời gian qua, các cơ quan ở trung ương và địa phương đã triển khai nhiều phương thức truyền thông khác nhau như: Thông qua bảng thông tin TGPL, hộp tin về TGPL, tờ gấp TGPL, chuyên trang, chuyên mục, phóng sự về hoạt động TGPL hoặc vụ việc TGPL điển hình trên các đài, báo, truyền hình... Đồng thời, Trang thông tin điện tử TGPL đã được nâng cấp, hoàn thiện, kịp thời cung cấp văn bản chỉ đạo, điều hành của trung ương và địa phương, là diễn đàn rộng rãi để trao đổi thông tin, kinh nghiệm, kỹ năng TGPL trên toàn quốc. Đây cũng là một kênh thông tin để người dân biết đến quyền được TGPL, tổ chức và hoạt động TGPL. Hơn nữa, từ năm 2016 đến nay, theo Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg, ngân sách trung ương đã bổ sung kinh phí cho 37 địa phương có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn có nhu cầu thiết lập đường dây nóng về TGPL để người dân liên hệ.
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong toàn hệ thống tổ chức TGPL, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã đưa Hệ thống quản lý tổ chức và hoạt động TGPL đi vào hoạt động. Thông qua đó cho phép nắm bắt, theo dõi, lưu giữ, tra cứu và quản lý được toàn bộ các thông tin về tổ chức và hoạt động TGPL bảo đảm kịp thời, chính xác, tiết kiệm thời gian và chi phí, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác tổng hợp, thống kê, báo cáo và theo dõi, đánh giá chất lượng TGPL, từ đó đề xuất những chính sách, giải pháp TGPL phù hợp. Đồng thời, việc ứng dụng hệ thống này sẽ là cầu nối giữa các cơ quan quản lý nhà nước về TGPL với các tổ chức thực hiện TGPL từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, để việc vận hành đạt hiệu quả cao, trong thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống phần mềm này nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế.
Trong bối cảnh Nhà nước đang tập trung đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, thời gian qua, lĩnh vực TGPL cũng đã thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là người được TGPL. Với số lượng thủ tục hành chính không nhiều và được phân cấp hoàn toàn về địa phương thực hiện (chủ yếu là cấp tỉnh) nên thủ tục hành chính trong lĩnh vực TGPL về cơ bản đã đáp ứng mục đích, yêu cầu của Nghị quyết số 30c/NQ-CP của Chính phủ, Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 - 2020, Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 04/7/2017 của Chính phủ về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
2. Đánh giá chung
Có thể nói rằng, việc Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 01/6/2015 phê duyệt Đề án đổi mới công tác TGPL đã tạo cơ sở cho việc đổi mới công tác TGPL nhằm mang lại lợi ích cho Nhà nước, xã hội và trực tiếp là đối tượng được thụ hưởng dịch vụ TGPL. Các nhóm nhiệm vụ, giải pháp đều xuất phát từ quan điểm lấy người được TGPL làm trung tâm. Mặc dù, sau khi Đề án được ban hành, việc triển khai Đề án cũng có gặp một số khó khăn, trở ngại trong nhận thức, tuy nhiên, với sự chỉ đạo quyết liệt của Lãnh đạo Bộ Tư pháp và sự vào cuộc sát sao của Cục Trợ giúp pháp lý, đến nay, các địa phương đã tích cực triển khai Đề án và thực tiễn đã chứng minh hiệu quả công tác TGPL được nâng lên một cách rõ rệt. Một số nhiệm vụ, giải pháp liên quan đến mô hình tổ chức không triển khai thực hiện theo Đề án đổi mới nhưng mô hình tổ chức của hệ thống TGPL đã được nghiên cứu và quy định rất rõ trong Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
Từ những kết quả như đã nêu ở phần trên, có thể khẳng định, việc đổi mới công tác TGPL trên thực tế trong thời gian qua là cần thiết và đã có những thành công mang tính đột phá. Nhiều nhóm giải pháp, nhiệm vụ đã được triển khai hiệu quả, “hình ảnh” dịch vụ TGPL trong mấy năm qua đã đổi mới phù hợp với bản chất của dịch vụ TGPL, góp phần bảo đảm tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL. Vì vậy, các định hướng đúng đắn của Đề án đã được thể hiện trong Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành và cần tiếp tục triển khai trên thực tế. Đến nay, cơ sở pháp lý cho sự phát triển bền vững của công tác TGPL đã tương đối đầy đủ. Các địa phương đều đã thể hiện sự nhất trí, đồng tình cao đối với chính sách TGPL hiện hành. Công tác TGPL đã ổn định, dần đi vào chiều sâu, thực chất, bảo đảm quyền lợi tốt nhất cho các đối tượng yếu thế trong các vụ án hình sự, dân sự... được người dân tin tưởng.
TS. Nguyễn Thị Minh
ThS. Trịnh Thị Thanh
Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp
ThS. Trịnh Thị Thanh
Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp
[1]. Theo Báo cáo tổng kết 08 năm triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý từ năm 2007 - 2014, số vụ việc tham gia tố tụng chiếm 5,6% tổng số vụ việc TGPL.
[2]. Điều 5 quy định về nguồn tài chính cho công tác TGPL.
[3]. Điều 14 quy định về hợp đồng thực hiện TGPL (thậm chí có thể ký hợp đồng với luật sư, tổ chức hành nghề luật sư ngoài tỉnh nếu địa phương không đáp ứng được).
[4]. Năm 2014, cả nước có 1.313 người làm việc tại các Trung tâm TGPL với 572 TGVPL và 741 người làm việc khác; đến hết năm 2018, cả nước có 1.218 người làm việc tại các Trung tâm TGPL với 645 TGVPL và 573 người làm việc khác.