Tháng 11/2014 mà Việt Nam tham gia và cam kết thực hiện, Bộ Tư pháp đã làm tốt vai trò là cơ quan đầu mối quốc gia về ĐKTKHT, tham gia Nhóm điều phối về CRVS khu vực châu Á - Thái Bình Dương; chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng Chương trình hành động quốc gia về ĐKTKHT của Việt Nam, phù hợp với Khung hành động khu vực.
Chương trình được xây dựng trên cơ sở điều kiện, khả năng hiện tại cũng như dự đoán hướng phát triển tương lai của hệ thống ĐKTKHT, bám sát yêu cầu tại hai văn kiện quan trọng thông qua tại Hội nghị cấp Bộ trưởng tại Thái Lan, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy thực hiện hiệu quả Luật Hộ tịch, các văn bản quy định chi tiết thi hành, bảo đảm nâng cao một cách đồng bộ, chất lượng, hiệu quả công tác ĐKTKHT trên phạm vi toàn quốc, cũng như tại các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (cơ quan đại diện).
Nội dung của Chương trình hướng đến các mục tiêu lớn sau:
(i) Bảo đảm tất cả các sự kiện hộ tịch của công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú trên lãnh thổ Việt Nam; công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài được đăng ký kịp thời, đầy đủ, chính xác, đúng quy định pháp luật.
(ii) Bảo đảm mọi người dân đều được cấp giấy tờ hộ tịch tương ứng với sự kiện hộ tịch đã được đăng ký, đặc biệt là các giấy tờ hộ tịch gắn với sự kiện hộ tịch cơ bản, quan trọng trong cuộc đời như: Giấy khai sinh (gắn với sự kiện sinh), giấy chứng nhận kết hôn (gắn với sự kiện kết hôn), trích lục khai tử (gắn với sự kiện tử); các giấy tờ này có đầy đủ nội dung cơ bản, phù hợp với thông lệ quốc tế[1]. Trường hợp người dân làm thất lạc bản chính giấy tờ hộ tịch này thì vẫn được cấp bản sao trích lục hộ tịch tương ứng hợp lệ để sử dụng, bảo đảm quyền lợi của mình.
(iii) Số liệu đăng ký hộ tịch được thống kê, tổng hợp đầy đủ, chính xác, kịp thời, có các chỉ tiêu cơ bản theo thông lệ quốc tế; được công bố công khai, minh bạch, đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước và nhu cầu của tổ chức,
cá nhân theo quy định pháp luật[2].
(iv) Thiết lập cơ chế phối hợp thống nhất giữa các ngành có liên quan, từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm hoạt động ĐKTKHT từng bước cải thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả, số liệu thống kê thống nhất, chính xác, bảo đảm các chỉ tiêu theo từng giai đoạn, phù hợp với Khung hành động khu vực[3].
Để thực hiện Chương trình, Bộ Tư pháp đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia thực hiện Chương trình (Ban Chỉ đạo), đồng thời xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện của cơ quan tư pháp. Theo nhiệm vụ được giao trong Chương trình có thể thấy, những khó khăn, thách thức không nhỏ đối với Bộ Tư pháp nói riêng, Ngành Tư pháp nói chung, đòi hỏi phải có sự phối hợp tích cực, nhiệt tình, hiệu quả, đồng bộ của không chỉ cơ quan tư pháp từ Trung ương đến địa phương, mà còn cần sự vào cuộc của các Bộ, ngành liên quan và tất cả Ủy ban nhân dân các cấp.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả nêu, phân tích những nhiệm vụ chính mà cơ quan tư pháp được giao; vai trò, ý nghĩa của các hoạt động này trong thúc đẩy việc thực hiện hiệu quả Luật Hộ tịch, các văn bản quy định chi tiết thi hành và những khó khăn, thách thức khi triển khai những nhiệm vụ này.
1. Thực hiện nhiệm vụ cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo
Do Chương trình có tính xuyên suốt, thực hiện trong thời gian dài (08 năm), đồng thời liên quan đến nhiều Bộ, ngành ở Trung ương và tất cả Ủy ban nhân dân các cấp, nên Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo để chỉ đạo, theo dõi, đôn đốc thống nhất việc thực hiện Chương trình (Quyết định số 786/QĐ-TTg ngày 05/6/2017). Ban Chỉ đạo do Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Trưởng ban; các Phó Trưởng ban là Thứ trưởng Bộ Tư pháp và Thứ trưởng Bộ Công an; các thành viên gồm có đại diện lãnh đạo: Văn phòng Chính phủ, Bộ Y tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê), Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Ngoại giao (Cục Lãnh sự) và Bộ Tài chính.
Bộ Tư pháp là cơ quan thường trực, có trách nhiệm tham mưu cho Ban Chỉ đạo điều phối, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện Chương trình; đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương thực hiện và báo cáo kết quả thực hiện; giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện theo thẩm quyền; tổng hợp, báo cáo kết quả và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện Chương trình. Việc bảo đảm thông tin, triển khai thực hiện nhất quán, đồng bộ giữa các ngành liên quan, đặc biệt giữa Ngành Tư pháp với Ngành Y tế, Ngành Thống kê trong bối cảnh cơ chế, đối tượng quản lý khác nhau, điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và tiêu chuẩn dữ liệu khác nhau... như hiện nay, cũng như việc thành viên Ban Chỉ đạo phải kiêm nhiệm công việc, không chuyên trách là một thách thức không nhỏ đối với cơ quan thường trực.
2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế liên quan đến hoạt động đăng ký và thống kê hộ tịch
Để bảo đảm hệ thống pháp luật điều chỉnh các nội dung liên quan đến hoạt động ĐKTKHT được đầy đủ, hoàn thiện, góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng của hệ thống ĐKTKHT, với chức năng vừa là cơ quan tham mưu Chính phủ về xây dựng pháp luật, vừa là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ĐKTKHT, Bộ Tư pháp có trách nhiệm chủ trì xây dựng, trình Chính phủ ban hành và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật sau:
- Nghị định của Chính phủ quy định về việc khai thác, sử dụng, chia sẻ thông tin, dữ liệu đăng ký hộ tịch; thủ tục đăng ký hộ tịch trực tuyến.
- Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực ĐKTKHT.
- Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch; Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP[4].
Để xây dựng các văn bản nêu trên đều đòi hỏi phải có tổng hợp thông tin phản ánh từ các địa phương sau thời gian (gần 18 tháng) triển khai thực hiện Luật Hộ tịch và các văn bản quy định chi tiết thi hành, trong đó có thông tin phản hồi từ việc thí điểm triển khai các hoạt động trong khuôn khổ Đề án Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc[5]; đi đôi với việc tổng hợp thông tin là các hoạt động khảo sát, đánh giá, kiểm nghiệm thông tin thực tiễn, các hội thảo trao đổi, bàn giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc... mới bảo đảm việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật vừa đúng quy trình, vừa sát thực tế và có tính khả thi. Nếu chỉ sử dụng nguồn kinh phí ngân sách (tối đa chỉ 60 triệu đồng cho 01 nghị định; 30 triệu đồng cho 01 thông tư) chắc chắn sẽ không đủ để thực hiện các hoạt động này, mà cần có sự chủ động, nỗ lực tìm kiếm các nguồn lực khác phù hợp để hỗ trợ. Thực tế, trong quá trình triển khai xây dựng Chương trình, Bộ Tư pháp đã được sự hỗ trợ tích cực, hiệu quả của nhiều tổ chức quốc tế, đặc biệt là các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc (UN) tại Việt Nam. Mong rằng việc thực hiện Chương trình sẽ tiếp tục nhận được sự hỗ trợ hiệu quả của các tổ chức này.
3. Cải thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật và hiện đại hóa phương thức đăng ký, thống kê hộ tịch
Trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, công nghệ thông tin được ứng dụng vào trong mọi hoạt động quản lý và ngày càng phát huy hiệu quả, đòi hỏi cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hệ thống ĐKTKHT cần phải được cải thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương; phương thức ĐKTKHT không thể theo phương thức truyền thống, thủ công mà cần phải sử dụng công nghệ thông tin để bảo đảm khả năng đáp ứng đầy đủ thông tin, nhanh, kịp thời, chính xác. Do đó, nhiệm vụ quan trọng cần ưu tiên triển khai thực hiện sớm là: Xây dựng và từng bước triển khai dự án khả thi cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc, bảo đảm cơ sở dữ liệu này hoàn thiện và đưa vào khai thác, sử dụng thống nhất trên toàn quốc từ ngày 01/01/2020.
Để thực hiện nhiệm vụ này, Bộ Tư pháp sẽ có trách nhiệm xây dựng hệ thống thông tin hộ tịch điện tử, phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch dùng chung trên toàn quốc[6], cài đặt, hỗ trợ tập huấn, đào tạo công chức sử dụng phần mềm. Theo quy định của Luật Hộ tịch thì số định danh cá nhân sẽ được cấp khi đăng ký khai sinh. Tuy nhiên, do nguồn lực còn nhiều hạn chế, đặc biệt là nguồn lực tài chính, nên mặc dù từ ngày 01/01/2016, Bộ Tư pháp đã cố gắng xây dựng phần mềm đăng ký khai sinh kết nối với phần mềm cấp số định danh cá nhân của Bộ Công an và triển khai thí điểm tại 04 thành phố lớn, nhưng đến nay, việc mở rộng vẫn còn hạn chế (dù đã tích cực, chủ động phối hợp với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhưng đến nay mới có 16 tỉnh, thành phố đủ điều kiện và đã triển khai áp dụng phần mềm này).
Công tác hộ tịch là công tác của cơ sở, ĐKTKHT phải từ Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện; với cơ chế phân cấp về kinh phí ngân sách, cũng như nguồn lực hiện tại, Chính phủ, Bộ Tư pháp không thể trang bị được trang thiết bị đồng bộ, bố trí kinh phí thực hiện việc chuyển đổi dữ liệu lịch sử (số hóa sổ giấy) cho các cơ quan đăng ký hộ tịch địa phương, do đó, không thể triển khai thực hiện được cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc nếu không có sự quan tâm đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin ở các tỉnh. Ủy ban nhân dân các cấp cần quan tâm trang bị cơ sở vật chất (máy tính, mạng internet, máy in) có chất lượng tốt, đồng bộ, phục vụ riêng cho công tác đăng ký hộ tịch tại tất cả các cơ quan đăng ký hộ tịch[7]; bố trí kinh phí phục vụ cho việc tập huấn, đào tạo công chức sử dụng trang thiết bị, phần mềm; kinh phí duy trì, sửa chữa, nâng cấp, bảo đảm hệ thống hoạt động thường xuyên, liên tục.
Bên cạnh đó, để có được cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc hoàn thiện, đầy đủ, phục vụ cho việc quản lý, tra cứu thông tin hộ tịch của cá nhân, làm cơ sở triển khai đăng ký hộ tịch điện tử, sử dụng số định danh cá nhân, giải quyết thủ tục hành chính theo phương thức trực tuyến... ngoài việc triển khai đồng bộ trên toàn quốc về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, phần mềm, đào tạo người dùng... còn phải cập nhật toàn bộ các dữ liệu hộ tịch đã được đăng ký và lưu trữ theo phương pháp “truyền thống” (sổ giấy đăng ký hộ tịch) vào cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử (chuyển đổi dữ liệu lịch sử). Đây cũng là một thách thức không nhỏ về nguồn lực, do lượng dữ liệu lịch sử trên toàn quốc rất lớn, đòi hỏi cao cả về chi phí và công nghệ xử lý dữ liệu mới bảo đảm được tính chính xác và toàn vẹn[8].
4. Nghiên cứu, đề xuất đổi mới, hoàn thiện tổ chức hệ thống cơ quan làm công tác đăng ký hộ tịch, bảo đảm chuyên nghiệp, hiệu quả
Theo Báo cáo kết quả rà soát, đánh giá thực trạng hệ thống ĐKTKHT của Bộ Tư pháp, mặc dù hệ thống cơ quan thực hiện việc ĐKTKHT được bố trí đến tận cấp xã (công chức tư pháp - hộ tịch tham mưu cho lãnh đạo Ủy ban nhân dân thực hiện); số lượng công chức làm công tác hộ tịch các cấp tương đối lớn[9], nhưng mô hình tổ chức, quản lý công chức chưa hợp lý, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu, bởi:
- Công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã hầu hết phải kiêm nhiệm nhiều việc khác ngoài công tác đăng ký hộ tịch, dẫn đến hoạt động thiếu chuyên nghiệp, quá tải[10], kể cả những đơn vị bố trí được nhiều hơn 01 công chức tư pháp - hộ tịch[11]. Nhưng nếu bố trí 01 công chức chuyên trách làm công tác hộ tịch cho 01 đơn vị cấp xã thì lại lãng phí nhân lực.
- Công chức tư pháp - hộ tịch chủ yếu là người bản địa, do ảnh hưởng của văn hóa làng xã, tình cảm họ hàng, nên việc đăng ký hộ tịch chịu nhiều tác động chủ quan.
- Công chức tư pháp - hộ tịch là vị trí có nhiều khả năng thay đổi/luân chuyển/bầu cử/bổ nhiệm theo nhiệm kỳ của Ủy ban nhân dân (chuyển sang làm công chức văn phòng, trúng cử chuyển làm công tác Hội đồng nhân dân...) nên không kịp bố trí người thay thế hoặc có người thay thế nhưng chuyên môn bị hạn chế do không đủ tiêu chuẩn, không kịp thời được bồi dưỡng nghiệp vụ.
- Công chức tư pháp - hộ tịch thuộc biên chế công chức của xã, hưởng lương từ ngân sách cấp xã, do lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp xã bố trí, sắp xếp nên khi phát hiện công chức có sai phạm, không đáp ứng tiêu chuẩn chuyên môn/năng lực, cơ quan tư pháp cấp trên không chủ động xử lý được, mà chỉ kiến nghị Ủy ban nhân dân cấp xã xử lý theo thẩm quyền, dẫn đến việc xử lý thiếu nghiêm khắc, chưa triệt để, thậm chí, có trường hợp vi phạm nghiêm trọng đến mức buộc thôi việc nhưng vẫn “nương nhẹ” vì không thể bố trí người thay thế.
Do đó, cần nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm tổ chức hệ thống cơ quan đăng ký hộ tịch trong khu vực và thế giới, từ đó đề xuất cơ cấu lại mô hình cơ quan đăng ký hộ tịch của Việt Nam, bảo đảm khoa học, hoàn thiện, hiệu quả. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, dù mới dự kiến thí điểm nhưng cũng có nhiều thách thức đối với Bộ Tư pháp, bởi đây sẽ là bước đột phá về mô hình tổ chức, sẽ phải thay đổi cơ cấu biên chế hành chính và thẩm quyền đăng ký hộ tịch theo cấp hành chính, vốn đã duy trì thành “thói quen” hơn nửa thế kỷ nay. Nhiệm vụ này đòi hỏi có sự đầu tư nghiên cứu sâu, rộng, cả về cách thức tổ chức cơ quan đăng ký hộ tịch, cả về cách thức xử lý hệ thống quy định pháp luật về tổ chức bộ máy, thẩm quyền đăng ký hộ tịch; đồng thời đòi hỏi cả đầu tư đồng bộ về cơ sở vật chất, trang thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin và đào tạo, huấn luyện cho đội ngũ cán bộ của hệ thống cơ quan đăng ký mới.
5. Nâng cao năng lực đội ngũ công chức làm công tác đăng ký, thống kê hộ tịch, bảo đảm tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng bổ trợ
Như đã nêu trên, do tính chất phức tạp, đòi hỏi nghiên cứu có chiều sâu và triển khai thực hiện đổi mới từng bước, nên trước mắt vẫn tiếp tục duy trì và tăng cường hiệu quả của mô hình tổ chức hiện nay. Để bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động ĐKTKHT, cần có các giải pháp nâng cao năng lực công chức làm công tác hộ tịch các cấp, các giải pháp đó là:
- Bố trí đủ số lượng công chức tư pháp - hộ tịch/số dân cư/loại đơn vị hành chính cấp xã; kiện toàn, bổ sung biên chế của Phòng Tư pháp cấp huyện đủ để đảm đương công việc[12].
- Tổ chức rà soát, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ công chức này, bảo đảm đến trước ngày 01/01/2020, 100% công chức bố trí làm công tác hộ tịch ở cấp huyện và cấp xã đủ tiêu chuẩn chuyên môn luật và được bồi dưỡng, cấp chứng chỉ nghiệp vụ đăng ký hộ tịch theo đúng quy định của Luật Hộ tịch.
- Đưa nội dung đào tạo về nghiệp vụ đăng ký, quản lý hộ tịch vào chương trình đào tạo trung cấp luật, trở thành một môn học chính thức trong nội dung đào tạo, bảo đảm học sinh tốt nghiệp trung cấp luật có đủ kỹ năng, nghiệp vụ về đăng ký hộ tịch, thực hiện được nhiệm vụ của công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã khi được tuyển dụng.
- Cơ quan quản lý hộ tịch cấp trên thường xuyên tiến hành giám sát, đánh giá, kiểm tra, hướng dẫn và kịp thời tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong thực tế triển khai thi hành quy định pháp luật hộ tịch; tập huấn chuyên sâu, biên soạn tài liệu tham khảo, sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ... để trang bị cho công chức làm công tác hộ tịch.
Để thực hiện có hiệu quả Chương trình, trong khi vẫn duy trì mô hình hệ thống cơ quan đăng ký hộ tịch hiện nay, với bối cảnh khó khăn, quá tải của phần lớn đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch như nêu trên, đòi hỏi cơ quan quản lý, hướng dẫn về nghiệp vụ (Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp) phải thường xuyên cập nhật thông tin, phối hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân dân các cấp để ổn định đội ngũ này, có kế hoạch cử đi đào tạo bảo đảm tiêu chuẩn chuyên môn luật theo quy định của Luật Hộ tịch, thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Ngoài đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch trực tiếp làm công tác ĐKTKHT, đội ngũ công chức làm công tác quản lý, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ ở cấp tỉnh, cấp trung ương cũng cần được bồi dưỡng, nâng cao về các kỹ năng bổ trợ cho công tác quản lý. Việc đào tạo, nâng cao một cách bài bản cho đội ngũ này cần nguồn lực không nhỏ cả về tài chính và nhân lực, đặc biệt là cần có hỗ trợ cung cấp các chuyên gia có kinh nghiệm quốc tế trong công tác huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng.
6. Nâng cao nhận thức của người dân về quyền, trách nhiệm đăng ký hộ tịch và nhận thức của cơ quan, tổ chức, xã hội về ý nghĩa, vai trò của đăng ký, thống kê hộ tịch
Đăng ký hộ tịch và được cấp giấy tờ hộ tịch, đặc biệt là giấy khai sinh, là cơ sở để cá nhân thực hiện và hưởng các quyền công dân khác[13]. Do đó, đăng ký hộ tịch, như Luật Hộ tịch đã xác định, vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của cá nhân. Nếu người dân không có ý thức trách nhiệm trong việc tới cơ quan đăng ký hộ tịch để thực hiện việc đăng ký; không cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin có liên quan khi yêu cầu đăng ký hộ tịch thì việc đăng ký hộ tịch không thể bảo đảm kịp thời, đầy đủ, chính xác và khách quan. Do đó, cần tăng cường công tác truyền thông, phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về hộ tịch, cũng như quy định pháp luật, chế độ, chính sách liên quan đến quyền lợi của người dân khi đăng ký hộ tịch (ví dụ: Cha, mẹ có trách nhiệm thực hiện việc đăng ký khai sinh cho con, có giấy khai sinh thì trẻ em mới được có họ, chữ đệm, tên chính thức, xác định quan hệ cha, mẹ - con và trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc của cha mẹ; trẻ em có giấy khai sinh thì mới được đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế, hưởng chế độ chăm sóc y tế...); hệ quả pháp lý cũng như hậu quả thực tế đối với trường hợp cung cấp thông tin không đầy đủ, không chính xác dẫn đến giấy tờ hộ tịch bị sai lệch; hậu quả bất lợi nếu làm mất, hư hỏng giấy tờ hộ tịch...
Bên cạnh đó, một số cơ quan, tổ chức, kể cả cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội... cũng nhận thức chưa chính xác, chưa đầy đủ về vai trò, ý nghĩa của công tác ĐKTKHT; về giá trị của giấy tờ hộ tịch, dẫn đến chưa quan tâm đầu tư, tạo điều kiện đúng mức đối với công tác này hoặc yêu cầu người dân phải làm lại/cải chính giấy tờ hộ tịch không đúng quy định pháp luật[14]. Vì vậy, cũng cần tăng cường công tác tuyên truyền, thông qua phương tiện thông tin đại chúng, các hình thức thông tin khác để bảo đảm có cách hiểu đúng, thống nhất của các cơ quan, tổ chức có hoạt động liên quan đến dân cư về quy định pháp luật hộ tịch, về vai trò, ý nghĩa của công tác ĐKTKHT; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức này trong việc thực hiện.
Trong bối cảnh không ít địa phương ưu tiên tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế, nên lãnh đạo Ủy ban nhân dân chưa thực sự thấy được tầm quan trọng, ý nghĩa của công tác hộ tịch, do đó không quan tâm, đầu tư cho công tác này (kể cả về cơ sở vật chất, con người, phương tiện làm việc, kinh phí triển khai…). Tuy đăng ký hộ tịch là trách nhiệm của Ủy ban nhân dân, nhưng có nơi còn phó mặc, khoán trắng cho công chức tư pháp - hộ tịch, không quan tâm, đầu tư cũng như không có sự chỉ đạo kiểm tra sát sao; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong công tác đăng ký hộ tịch thiếu đồng bộ, chặt chẽ dẫn đến vẫn còn tình trạng đăng ký hộ tịch thiếu kịp thời, thông tin ĐKTKHT không đầy đủ, thiếu chính xác[15]. Nhận thức của người dân ở một số vùng về quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch còn hạn chế, còn chịu tác động lớn của phong tục, tập quán (bao gồm cả phong tục, tập quán lạc hậu, không phù hợp quy định pháp luật), đặc biệt người dân là đồng bào dân tộc ít người, người dân ở khu vực vùng sâu, vùng xa. Có thể thấy, việc ưu tiên nguồn lực cho Ngành Tư pháp phối hợp với các cấp, các ngành liên quan đẩy mạnh công tác truyền thông, đẩy lùi những thói quen lạc hậu, nâng cao hay mạnh hơn là thay đổi nhận thức của một bộ phận cơ quan, tổ chức, chính quyền đã có từ lâu là một thách thức không nhỏ.
7. Thu thập chính xác, đầy đủ, kịp thời thông tin thống kê hộ tịch, đáp ứng được yêu cầu quản lý của Nhà nước và nhu cầu sử dụng của tổ chức, cá nhân
Mặc dù thời gian qua, công tác thống kê dữ liệu hộ tịch đã đạt được kết quả nhất định, thể chế liên quan đến công tác này thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện, nhưng kết quả rà soát, kiểm tra, đánh giá cho thấy vẫn còn không ít điểm hạn chế, như: Chỉ tiêu thống kê về khai sinh, khai tử chưa có trong hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia[16]; nhiều chỉ tiêu thống kê chưa đáp ứng yêu cầu theo chuẩn quốc tế; chất lượng, độ chính xác, tính tin cậy của dữ liệu và sự kịp thời của thông tin được cung cấp chưa có cơ chế giám sát, bảo đảm, thậm chí bất hợp lý[17] nên chưa phát huy được vai trò, ý nghĩa, cũng như chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý của Nhà nước và các nhu cầu sử dụng khác.
Để bảo đảm nguồn dữ liệu hộ tịch (trong đó chủ yếu là dữ liệu sinh, tử) có chất lượng, phục vụ hiệu quả cho việc phân tích, hoạch định chính sách, khẳng định và bảo đảm vai trò của hoạt động ĐKTKHT, đòi hỏi Ngành Tư pháp và các ngành có liên quan (y tế, thống kê) phải có giải pháp:
- Rà soát, thống kê tỷ lệ đăng ký khai sinh, tỷ lệ đăng ký khai tử hàng năm.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, bảo đảm dữ liệu thống kê hộ tịch được chính xác, đầy đủ, kịp thời.
- Công bố công khai, đầy đủ các chỉ tiêu thống kê hộ tịch.
- Có quy chế giám sát, phối hợp liên ngành, kiểm tra thường xuyên, bảo đảm số liệu thống kê đầy đủ, chính xác; có cơ chế khai thác, sử dụng các số liệu thống kê đã được công bố.
- Song song với việc hoàn thiện mô hình tổ chức, nâng cao năng lực hệ thống ĐKTKHT, để bảo đảm chỉ tiêu theo đúng Khung hành động khu vực, phục vụ việc đăng ký và thống kê dữ liệu tử vong được đúng, chính xác, phù hợp tiêu chuẩn, cần hoàn thiện mô hình xác định nguyên nhân tử vong, cấp chứng nhận tử vong của cơ quan y tế, kể cả các trường hợp tử vong ngoài cơ sở y tế; nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ y tế thực hiện việc cấp giấy chứng sinh, chứng tử, thu thập và cung cấp dữ liệu sinh, tử.
Trong điều kiện công tác thống kê hộ tịch của Việt Nam còn yếu, các tiêu chí thống kê hộ tịch của Việt Nam còn chưa phù hợp với các nước khác trong khu vực; nhiều tiêu chí thống kê tại Việt Nam còn thiếu (như thống kê việc tử thì chưa xác định được nguyên nhân chết; thống kê việc kết hôn có yếu tố nước ngoài thì cũng chưa phân định được chính xác số lượng kết hôn theo quốc gia, vùng lãnh thổ...), phương pháp thống kê thủ công, chưa đổi mới; chưa xóa bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, không hiệu quả trong công tác thống kê hộ tịch; chất lượng và hiệu quả của thống kê số liệu hộ tịch đang phụ thuộc rất lớn vào việc hiện đại hóa phương thức ĐKTKHT, nên đây sẽ là thách thức mà Việt Nam nói chung, Ngành Tư pháp nói riêng phải từng bước giải quyết trong thời gian tới.
Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được vai trò, ý nghĩa quan trọng của việc hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ thống ĐKTKHT, đang từng bước nỗ lực phát huy nội lực để triển khai thực hiện Chương trình, nhưng với nguồn lực và điều kiện hiện nay, Việt Nam sẽ cần tranh thủ sự hỗ trợ, phối hợp giúp đỡ của các quốc gia, các tổ chức quốc tế có kinh nghiệm, tiềm lực trong khu vực và trên thế giới. Do Chương trình có tính chiến lược, dài hơi nên tốt nhất cần đạt được những cam kết hỗ trợ lâu dài, phù hợp với các giai đoạn thực hiện Chương trình, đặc biệt là từ các tổ chức thuộc UN tại Việt Nam. Mong rằng, với nhiệt tâm, mối quan hệ phối hợp chặt chẽ trong suốt thời gian qua, Việt Nam sẽ có được sự hỗ trợ, giúp đỡ hiệu quả của UN cũng như các tổ chức quốc tế khác để Chương trình được triển khai thực hiện đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, đóng góp chung vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động ĐKTKHT của khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Nhâm Ngọc Hiển
Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, Bộ Tư pháp
Tài liệu tham khảo:
[1]. Bao gồm: Họ, chữ đệm, tên; ngày, tháng, năm sinh; số định danh cá nhân; nơi đăng ký, thời gian đăng ký; nơi sinh, thông tin về cha, mẹ (đối với giấy khai sinh); nơi chết, thời gian chết, nguyên nhân chết (đối với trích lục khai tử).
[2]. Cần bảo đảm đầy đủ các phân tổ thống kê về phân loại đối tượng đăng ký khai sinh, tuổi, tình trạng hôn nhân của mẹ, tuổi của con khi khai sinh; số lần kết hôn; độ tuổi của người chết, nơi chết (tại cơ sở y tế hay ngoài cơ sở y tế); nguyên nhân chết theo Bảng phân loại bệnh quốc tế mới nhất (ICD)... Các chỉ tiêu thống kê trên cơ sở phân tổ đầy đủ sẽ giúp cho cơ quan quản lý nhà nước đánh giá được tình hình, xu hướng biến động, sức khỏe của dân cư, từ đó có các chính sách y tế, giáo dục, kinh tế - xã hội phù hợp với từng khu vực, từng giai đoạn.
[3]. Có phụ lục về các chỉ tiêu cụ thể trong từng lĩnh vực giai đoạn kèm theo Chương trình.
[4]. Thực tế kiểm tra, đánh giá cho thấy lĩnh vực hộ tịch là lĩnh vực luôn phát sinh biến động, nhiều sự kiện phức tạp không thể dự liệu hết nên cần phải có sự điều chỉnh quy định pháp luật hộ tịch sau một giai đoạn thực hiện cho phù hợp thực tiễn; đồng thời với việc xây dựng và đưa vào vận hành cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc, sẽ phải xây dựng nghị định điều chỉnh việc khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu này, triển khai thủ tục đăng ký hộ tịch trực tuyến, do đó cần tiến hành song song với việc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 123/2015/NĐ-CP và Thông tư số 15/2015/TT-BTP (về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch) để bảo đảm phù hợp, thống nhất.
[5]. Bộ Tư pháp đã xây dựng và bước đầu thí điểm việc áp dụng phần mềm đăng ký khai sinh - kết nối cấp số định danh cá nhân cho trẻ em tại 12 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, phối hợp nghiên cứu, thí điểm công nghệ nhận dạng chữ viết tay phục vụ cho việc chuyển đổi dữ liệu lịch sử, số hóa dữ liệu giấy; triển khai phần mềm đăng ký và quản lý hộ tịch dùng chung, có kết nối với phần mềm đăng ký hộ tịch điện tử/phần mềm quản lý thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch tại bộ phận một cửa ở một số địa phương…
[6]. Phần mềm sẽ có chức năng kết xuất báo cáo thống kê số liệu đăng ký hộ tịch theo các phân tổ, chỉ tiêu thống kê đã đặt ra bất cứ thời điểm nào cơ quan quản lý có yêu cầu.
[7]. Để bảo đảm triển khai thực hiện cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử hiệu quả sẽ cần có sự trang bị đồng bộ, thống nhất trên địa bàn toàn tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương. Tuy nhiên, do điều kiện kinh phí còn hạn chế nên tùy theo điều kiện địa phương, cần có kế hoạch từng bước trang bị, nâng cấp, cải thiện hệ thống này.
Theo kết quả thống kê, báo cáo thì đầu tư về cơ sở hạ tầng của các địa phương không đồng đều, nên khó có thể triển khai thực hiện thống nhất, đồng bộ giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác ĐKTKHT tại các địa phương.
[8]. Tham khảo thêm Đề án Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử đã được phê duyệt theo Quyết định số 2173/QĐ-BTP ngày 11/12/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
[9]. Toàn quốc hiện tại có 11.153 đơn vị hành chính cấp xã, với trên 17.000 công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã; 704 đơn vị hành chính cấp huyện, với trên 3.100 công chức của Phòng Tư pháp.
[10]. Công chức tư pháp - hộ tịch phải làm từ 12 đến 16 đầu việc khác của Ngành Tư pháp, chưa kể nhiều nơi còn phải kiêm nhiệm công việc của ngành khác.
[11]. Có 33,6% số đơn vị cấp xã bố trí được từ 02 công chức tư pháp - hộ tịch trở lên.
[12]. Phòng Tư pháp chịu trách nhiệm tham mưu Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết các việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài và một số việc hộ tịch khác theo phân cấp, đồng thời phải thực hiện tất cả các lĩnh vực công tác khác của Ngành Tư pháp.
[13]. Giấy khai sinh là cơ sở pháp lý để xác định số định danh cá nhân và các dữ liệu hộ tịch khác của cá nhân, trong đó có quốc tịch - xác định tư cách công dân, là cơ sở để được cấp thẻ bảo hiểm y tế, đăng ký thường trú và các chế độ, chính sách khác.
[14]. Pháp luật hộ tịch hiện hành đã xác định giá trị pháp lý của giấy khai sinh, không phân biệt giấy khai sinh đăng ký lại, bản chính hay bản sao chứng thực hay trích lục khai sinh bản sao, nếu được cấp hợp lệ thì đều có giá trị, là cơ sở để điều chỉnh các hồ sơ, giấy tờ cá nhân khác; đồng thời từ ngày 01/01/2016, cơ quan đăng ký hộ tịch sẽ sử dụng mẫu trích lục thay đổi/cải chính hộ tịch thay thế cho việc ban hành quyết định thay đổi, cải chính hộ tịch nhưng một số cơ quan, tổ chức, đặc biệt là cơ quan công an không chấp nhận giấy khai sinh đăng ký lại, bản sao chứng thực giấy khai sinh, trích lục thay đổi/cải chính hộ tịch mà yêu cầu phải có giấy khai sinh gốc (là giấy khai sinh được cấp trước đây tại thời điểm sinh) hoặc quyết định thay đổi, cải chính hộ tịch. Ngược lại việc không chấp nhận giá trị của giấy khai sinh, xuất hiện tình trạng lạm dụng giấy khai sinh, nhiều cơ quan giải quyết thủ tục hành chính yêu cầu phải xuất trình/nộp giấy khai sinh mới giải quyết, trong khi đã có các giấy tờ khác chứng minh thông tin về nhân thân của cá nhân (như việc điều chỉnh thông tin trong hộ khẩu, mặc dù đã có chứng minh nhân dân/thẻ căn cước công dân nhưng nhiều cơ quan công an vẫn yêu cầu phải có giấy khai sinh).
[15]. Kết quả khảo sát tại 08 tỉnh, thành phố trong các năm 2015, 2016 cho thấy, tại hầu hết các đơn vị tiến hành khảo sát (16 đơn vị cấp huyện, 32 đơn vị cấp xã), lãnh đạo Ủy ban nhân dân, lãnh đạo ngành Y tế, ngành Thống kê đều không nắm được tỷ lệ đăng ký khai sinh, khai tử trên địa bàn; cũng như nguyên nhân của tình trạng tỷ lệ đăng ký khai sinh đều trên 100%.
[16]. Luật Thống kê và các văn bản quy định chi tiết thi hành có giao Tổng cục Thống kê công bố thông tin thống kê quốc gia, nhưng chưa có chỉ tiêu thống kê về tổng số sinh, tử (mới chỉ có chỉ tiêu tỷ lệ trẻ em dưới 05 tuổi đã được đăng ký khai sinh; tổng số trường hợp đăng ký khai tử), chưa có chỉ tiêu về tỷ lệ đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử trên tổng số sinh, tử thực tế hàng năm…
[17]. Kết quả khảo sát, kiểm tra cả trong lĩnh vực tư pháp, y tế đều cho thấy số liệu thống kê chưa bảo đảm thống nhất, đầy đủ về đối tượng; báo cáo số liệu một số nơi thực hiện chưa chính xác, thiếu tin cậy và chưa được giám sát, kiểm tra thường xuyên, việc thống kê chủ yếu thực hiện thủ công, chưa được ứng dụng khoa học công nghệ đồng bộ; đối chiếu, tính tỷ lệ đăng ký khai sinh ở cấp huyện trở lên đều trên 100%.