1.1. Pháp luật về phòng, chống tham nhũng giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985
Sau khi giành chính quyền năm 1945, cùng với việc thiết lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta chủ trương vừa đẩy mạnh sản xuất, tăng cường bảo vệ Tổ quốc, vừa từng bước hoàn thiện các chính sách quản lý kinh tế, quản lý xã hội, bảo đảm an ninh trật tự quốc gia. Ngay tại thời điểm đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi phòng, chống tham nhũng là công việc quan trọng của công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhà nước[1]. Văn bản pháp luật hình sự đầu tiên là Sắc lệnh số 223/SL ngày 27/11/1946 về trừng trị các tội biển thủ và nhận hối lộ. Trong sắc lệnh này ghi rõ: Tội đưa hối lộ cho công chức, tội công chức nhận hối lộ bị phạt tù từ 5 năm đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi tang vật nhận hối lộ...
Trong thời kỳ 1954 - 1965, Nhà nước và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về đấu tranh chống tội phạm như: Sắc lệnh số 267/SL ngày/15/6/1956 về việc trừng trị những âm mưu, hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn hóa; Sắc lệnh số 01/SL ngày 14/4/1957 về chống đầu cơ kinh tế; Luật Về đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân ngày 24/01/1957; Chỉ thị số 639 ngày 01/6/1964 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn đường lối xét xử các loại tội phạm quyền sở hữu xã hội chủ nghĩa; Pháp lệnh Trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21/10/1970; Quyết định số 50/TTg ngày 16/02/1971 của Thủ tướng Chính phủ về việc nghiêm cấm các quỹ trái phép trong các xí nghiệp, cơ quan nhà nước...
1.2. Pháp luật về phòng, chống tham nhũng giai đoạn đổi mới (từ năm 1986 đến nay)
Chính sách đổi mới được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI năm 1986. Mở đầu công cuộc đổi mới đất nước, cuộc chiến chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí tiếp tục được Đảng ta đẩy mạnh. Văn kiện Đại hội VI nêu rõ: “Hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển. Công bằng xã hội bị vi phạm. Pháp luật kỷ cương không nghiêm. Những hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước... chưa bị trừng trị nghiêm khắc”. Tại các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX và X, Đảng ta tiếp tục chỉ rõ sự nguy hại của tham nhũng đến sự tồn vong của chế độ. Đại hội X nêu rõ: “Tình trạng suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng”. Từ sau Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2014, thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng. Bộ Chính trị (khóa X) ban hành Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07/12/2015 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa X) xác định: “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Đại hội XI, Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp lớn về phòng, chống tham nhũng. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII): “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”. Lần đầu tiên vấn đề phòng, chống tham nhũng được ghi nhận vào Hiến pháp (khoản 2 Điều 8 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”).
Trong những năm qua, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến phòng, chống tham nhũng như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Hình sự, Luật Tố cáo, Luật Tiếp cận thông tin, Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng; Nghị định số 130/2020/NĐ-CP về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị…
2. Đánh giá về tình hình tham nhũng ở nước ta trong thời gian qua
2.1. Một số kết quả đã đạt được trong công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong thời gian qua
Một là, chính sách quản lý kinh tế, xã hội và phòng, chống tham nhũng ngày càng hoàn thiện: Hệ thống văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng cơ bản đã đầy đủ, thể hiện rõ chủ trương, giải pháp, quy định mới, mạnh mẽ và quyết liệt về xây dựng chỉnh đốn Đảng. Nhiều quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế - xã hội, phòng, chống tham nhũng được ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc, vừa để giáo dục, phòng ngừa, ngăn chặn, vừa là căn cứ để phát hiện, xử lý tiêu cực, tham nhũng.
Hai là, công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán được tiến hành thường xuyên, liên tục, kịp thời phát hiện, ngăn chặn nhiều hành vi tham nhũng, lãng phí, thiết chặt kỷ cương trong Đảng và bộ máy Nhà nước: Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán được tăng cường, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh nhiều sai phạm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà nước, góp phần đắc lực nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng. Cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp đã tích cực, chủ động, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; tập trung vào đối tượng, lĩnh vực, địa bàn phức tạp, dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, những vấn đề bức xúc mà cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm.
Ba là, tích cực điều tra, xử lý nghiêm nhiều vụ án tham nhũng: Trong thời gian qua, Ban Chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Nội chính Trung ương đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp đã được phát hiện và đưa ra xét xử nghiêm minh theo đúng các quy định của pháp luật, được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, đánh giá cao, nhiều quan chức cấp cao, kể cả thuộc diện Trung ương quản lý cũng chịu hình phạt nghiêm khắc của pháp luật.
Bốn là, công tác cán bộ, cải cách hành chính, ứng dụng khoa học, kê khai tài sản, công bố thông tin: Công tác cán bộ, cải cách hành chính có nhiều đổi mới, dân chủ, chặt chẽ, công khai, minh bạch. Trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị đạt kết quả tích cực. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, cục bộ, địa phương, “lợi ích nhóm” đã giảm; cải cách hành chính, ứng dụng khoa học, công nghệ trong quản lý được đẩy mạnh; việc cải cách tiền lương; xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn được chú trọng; thực hiện các biện pháp về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức; đổi mới khoa học công nghệ quản lý và phương thức thanh toán không dùng tiền mặt nhằm phòng ngừa tham nhũng…
Năm là, công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng: Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đấu tranh phòng, chống tham nhũng với nhiều hình thức, như tuyên truyền, phổ biến, giáo dục có nhiều đổi mới, vai trò tích cực của các cơ quan truyền thông, báo chí trong phòng, chống tham nhũng ngày càng được khẳng định và phát huy.
Sáu là, vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp và nhân dân trong phòng, chống tham nhũng ngày càng phát huy hiệu quả: Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội tăng cường giám sát công tác phòng, chống tham nhũng; Hội đồng nhân dân các cấp đã quan tâm nhiều hơn về giám sát công tác phòng, chống tham nhũng ở địa phương.
Bẩy là, hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng được tăng cường, đạt kết quả tích cực; hoạt động phòng, chống tham nhũng từng bước được mở rộng ra khu vực ngoài nhà nước: Đến nay, Việt Nam đã ký kết và tham gia 20 hiệp định tương trợ tư pháp; Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung 04 tội danh về tham nhũng đối với khu vực ngoài nhà nước; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 dành một chương riêng về hoạt động phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước.
2.2. Một số hạn chế, bất cập trong công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong thời gian qua
Thứ nhất, về thể chế, chính sách pháp luật: Hệ thống pháp luật về phòng, chống tham nhũng còn chồng chéo; tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế, không ít văn bản pháp luật đã có hiệu lực thi hành nhưng chưa thể áp dụng vì chưa có văn bản hướng dẫn. Hiện nay, cũng chưa có chế định rõ ràng, đồng bộ về cơ chế phân công, phối hợp kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước còn những điểm chưa hợp lý; chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế.
Thứ hai, về công tác kiểm tra, giám sát: Việc kiểm tra, giám sát từ bên trong bộ máy nhà nước để phát hiện tham nhũng chưa được phát huy mạnh; chế tài xử lý vi phạm thiếu chặt chẽ, rõ ràng, còn nhiều sơ hở. Việc kê khai tài sản, thu nhập còn nặng về hình thức; hầu hết các bản kê khai chưa được kiểm tra, xác minh, kiểm chứng; chưa giúp cho các cơ quan chức năng kiểm soát được những biến động về tài sản của người có chức vụ, quyền hạn; nhiều cơ quan, đơn vị chưa nắm đầy đủ trình tự, thủ tục kê khai và công khai giải trình.
Thứ ba, về công tác cán bộ và bản thân các cán bộ: Công tác cán bộ có nơi có lúc bị buông lỏng, chưa có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những cán bộ yếu kém, uy tín thấp. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý kinh tế có tình trạng còn yếu về nghiệp vụ, kinh nghiệm và phẩm chất đạo đức. Một số cán bộ, công chức lợi dụng quy định về bí mật nhà nước để che giấu thông tin, nhằm mục đích tham nhũng.
Thứ tư, một số người đứng đầu chưa nêu cao vai trò của mình trong phòng, chống tham nhũng, số người bị xử lý trách nhiệm khi để xảy ra tham nhũng ở các cơ quan, đơn vị còn ít so với số vụ việc tham nhũng được phát hiện: Cơ chế tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách mặc dù đã được quy định khá chi tiết trong nhiều văn bản pháp quy, đặc biệt là quy chế dân chủ ở cơ sở, ở cơ quan, xí nghiệp, đơn vị, xã, phường, thị trấn vẫn cần tiếp tục hoàn thiện bởi vì chế tài vẫn chưa rõ, rất khó quy trách nhiệm và xử phạt khi sai phạm xảy ra.
Thứ năm, việc xử lý tham nhũng trong nhiều trường hợp còn chưa nghiêm, chưa kịp thời: Hành vi tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp, vì vậy, việc phát hiện và xử lý tham nhũng gặp nhiều khó khăn. Việc xử lý và thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, tham nhũng còn gặp rất nhiều khó khăn do một số nguyên nhân như: Bị can, bị cáo trốn ra nước ngoài, hoặc bị can, bị cáo chết, hoặc chưa kiểm soát được tài sản, thu nhập của xã hội nên tài sản có nguồn gốc tham nhũng dễ dàng bị tẩu tán. Do đó, một số vụ án tiền, tài sản tham nhũng thu hồi được nhỏ hơn nhiều so với tổng số thiệt hại do các đối tượng chiếm đoạt[2].
Thứ sáu, chưa tạo sự tin tưởng cần thiết cho những người tố cáo tham nhũng: Mặc dù cơ chế bảo vệ người tố giác đấu tranh phòng chống tham nhũng đã được pháp luật quy định, tuy nhiên, trên thực tế hiện tượng trù dập, trả thù hoặc đe dọa trả thù vẫn xảy ra khiến người tố cáo tham nhũng lo ngại, không dám đấu tranh[3].
Thứ bẩy, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng chống tham nhũng, lãng phí hiệu quả chưa cao: Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng chống tham nhũng, lãng phí chưa được thực hiện thường xuyên để nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, của người dân[4].
3. Giải pháp để ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng ở nước ta trong thời gian tới
Một là, về công tác hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, công khai và minh bạch thông tin:
Để thực hiện giải pháp này, cần liên tục rà soát, sửa đổi bổ sung những quy định pháp luật còn chồng chéo, bất cập để phục vụ công tác phát hiện, xử lý tham nhũng; cắt giảm, đơn giản các điều kiện kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, công khai và minh bạch thông tin, ứng dụng khoa học, công nghệ trong quản lý và thanh toán không dùng tiền mặt, thực hiện tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính công trực tuyến, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận thông tin.
Hai là, về công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chính sách tiền lương:
Công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong đó khâu tuyển dụng nhân sự có ý nghĩa rất quan trọng trong việc lựa chọn những người ưu tú, thực sự xứng đáng và phù hợp với yêu cầu công việc. Tuyển dụng công chức cần bảo đảm tính khách quan, minh bạch và bình đẳng để từ đó xây dựng đội ngũ công chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước. Việc trả lương cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo, phù hợp với nguồn lực của Nhà nước, bảo đảm tương quan hợp lý với tiền lương trên thị trường lao động; thực hiện chế độ đãi ngộ, khen thưởng xứng đáng, tạo động lực nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị.
Ba là, về công tác kiểm tra, giám sát từ bên trong bộ máy tổ chức, kiểm soát xung đột lợi ích:
Để thực hiện tốt công tác phòng, chống tham nhũng, cần thiết lập cơ chế, tổ chức giám sát tham nhũng, hằng năm chỉ đạo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án tham nhũng; chú trọng khắc phục việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng còn hình thức, hiệu quả thấp; tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, nhất là các lĩnh vực có nhiều dư luận tiêu cực; thực hiện các quy định về kê khai tài sản, thu nhập của các công chức, viên chức nghiêm túc, trung thực, đầy đủ; có những chế tài xử phạt hữu hiệu áp dụng cho những ai không chấp hành hoặc đưa ra thông tin sai lệch; kiểm soát xung đột lợi ích; công khai việc sử dụng tài chính, mua sắm tài sản công, xây dựng cơ bản; công khai trong công tác tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức; công khai trong công tác quy hoạch, đào tạo, đánh giá, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, khen thưởng, kỷ luật, nâng lương, chuyển ngạch lương, cho thôi việc, cho thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm, bãi nhiệm, hưu trí đối với công chức, viên chức và người lao động…
Bốn là, về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị:
Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra tham nhũng tại cơ quan, đơn vị mình thì sẽ bị xử lý theo quy định. Người đứng đầu cần thực hiện quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp trong cơ quan, đơn vị nhằm bảo đảm liêm chính, trách nhiệm, đạo đức công vụ.
Năm là, về công tác phòng ngừa và phát hiện kịp thời, xử lý thật nghiêm các vụ án, vụ việc, cá nhân tham nhũng:
Cùng với các biện pháp phòng ngừa để giảm thiểu nguy cơ phát sinh các vụ việc tham nhũng; cần phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm các vụ việc, vụ án tham nhũng, đặc biệt là các vụ tham nhũng lớn và những người có hành vi tham nhũng giữ chức vụ cao trong bộ máy nhà nước được quan tâm, chỉ đạo sát sao; quyết tâm thu hồi triệt để tài sản tham nhũng... để củng cố niềm tin của nhân dân.
Sáu là, về cơ chế bảo vệ và động viên, khen thưởng những người tố cáo tham nhũng:
Việc tố cáo thường gặp phải rất nhiều trở ngại, khó khăn như: Không nhận được sự đồng tình, ủng hộ của mọi người xung quanh, chịu nhiều áp lực về tinh thần, thậm chí còn phải đối mặt với nguy cơ bị cô lập, trù dập, trả thù… Do đó, cần biểu dương, tôn vinh đồng thời có cơ chế bảo vệ người tố cáo, phát hiện hành vi tham nhũng.
Bẩy là, về công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của toàn xã hội trong phòng, chống tham nhũng:
Tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, bao gồm các nghị quyết, luật, nghị định, thông tư; đa dạng hoá nội dung, hình thức tuyên truyền pháp luật thông qua các hội nghị tập huấn pháp luật, bản tin, trang tin điện nhằm nâng cao nhận thức của công chức, viên chức và người lao động về tác hại của tham nhũng và trách nhiệm của xã hội trong công tác phòng, chống tham nhũng.
Đối với nhân dân, cần tuyên truyền, phổ biến đến đông đảo quần chúng nhân dân về các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước để công dân tích cực thực hiện nghiêm chỉnh quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng; giám sát, phát hiện, thông tin, phản ánh, tố cáo hành vi tham nhũng; nâng cao vai trò phản biện xã hội mang tính tích cực để người dân chủ động đánh giá, thẩm định, đề xuất mang tính xây dựng góp phần vào nỗ lực chung phòng, chống tham nhũng; giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ thanh niên nhận thức rằng tham nhũng là một hành vi phi đạo đức, cần bị lên án, đấu tranh; xây dựng nền tảng đạo đức hướng tới một xã hội trong sạch, đề cao liêm chính, không chấp nhận tham nhũng nhằm thiết lập cơ sở xã hội vững chắc ngăn ngừa tệ nạn này từ gốc.
Tám là, về vai trò của các tổ chức truyền thông và báo chí trong cuộc chiến chống tham nhũng:
Nâng cao vai trò của các tổ chức truyền thông, báo chí, cơ quan thông tấn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, nâng cao chất lượng và số lượng thông tin để các cơ quan truyền thông khai thác cho các phóng sự của mình sẽ làm tăng tính khách quan trong cách viết, giúp họ thu thập bằng chứng nhanh hơn, hiệu quả hơn, giúp họ sử dụng dễ dàng hơn các kỹ năng điều tra để phát hiện những trường hợp tham nhũng và bảo vệ người tố cáo tham nhũng.
Phòng và chống tham nhũng đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị cũng như sự tham gia của người dân. Mỗi công chức, viên chức, cán bộ, đảng viên, người lao động chúng ta cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm chính trị về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nêu cao tự phê bình và phê bình, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Với những chủ trương, đường lối được Đảng hoạch định kết quả đạt được trong những năm qua, chúng ta hoàn tin tưởng rằng, thời gian tới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta sẽ luôn kề vai sát cánh, chung sức, đồng lòng, nỗ lực phấn đấu thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh”; thường xuyên tiến hành quyết liệt, đồng bộ nhiều chủ trương, giải pháp phù hợp để hạn chế, đẩy lùi, tiến tới loại trừ tham nhũng ra khỏi đời sống xã hội./.
Vụ Pháp chế - Bộ Công Thương