Theo đó, công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam có đủ các tiêu chuẩn sau đây có thể được xem xét, bổ nhiệm giám định viên tư pháp: Có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt động chuyên môn ở lĩnh vực được đào tạo từ đủ 05 năm trở lên. Trường hợp người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự đã trực tiếp giúp việc trong hoạt động giám định ở tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự thì thời gian hoạt động thực tế chuyên môn từ đủ 03 năm trở lên; người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự phải có chứng chỉ đã qua đào tạo hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ giám định.
Việc rà soát và công bố người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc được Luật Giám định tư pháp giao cho các bộ, ngành chủ quản và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cụ thể: Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, bộ, cơ quan ngang bộ khác và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm lựa chọn, lập và hằng năm công bố danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc ở lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý để đáp ứng yêu cầu giám định của hoạt động tố tụng. Danh sách kèm theo thông tin về chuyên ngành giám định, kinh nghiệm, năng lực của người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc được đăng tải trên cổng thông tin điện tử của bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời gửi Bộ Tư pháp để lập danh sách chung. Như vậy, theo quy định này thì hàng năm ở trung ương các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ở địa phương các sở, ngành thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ tiến hành bổ nhiệm, rà soát, lập, công bố danh sách cá nhân, tổ chức giám định tư pháp đăng trên cổng thông tin của bộ, ngành và Ủy ban nhân dân câp tỉnh đồng thời gửi Bộ Tư pháp để lập danh sách chung trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (chuyên mục Giám định tư pháp tại Trang thông tin bổ trợ tư pháp: bttp.moj.gov.vn).
Nhìn chung, cho tới nay, đội ngũ giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng. Tất cả giám định viên tư pháp được bổ nhiệm đều có trình độ đại học trở lên, đối với giám định viên pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự phải có chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ giám định trước khi được bổ nhiệm, nhiều giám định viên tư pháp có trình độ sau đại học. Người giám định tư pháp theo vụ việc được rà soát, ra quyết định công bố đều là những cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức tốt, có thể đảm đương được hầu hết các vụ việc giám định theo yêu cầu của cơ quan tố tụng. Các tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc cũng được quan tâm rà soát và công bố hàng năm, góp phần giúp các cơ quan tố tụng có đưa ra lựa chọn trưng cầu khi cần thiết.
Theo thống kê, lĩnh vực giám định được trưng cầu chủ yếu là pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự (chiếm 90%); các lĩnh vực giám định về xây dựng, tài chính, ngân hàng, thông tin và truyền thông, kế hoạch và đầu tư... có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây; lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn hóa, nông nghiệp và phát triển nông thôn, công thương... cũng có nhưng thấp; nhu cầu giám định trong giao dịch dân sự do đương sự tự yêu cầu giám định chưa phổ biến, phát sinh chủ yếu ở lĩnh vực pháp y tâm thần, chuyên ngành dấu vết tài liệu trong kỹ thuật hình sự, xây dựng...
Bên cạnh những kết quả đạt được như: Số lượng người giám định tư pháp tăng cao cả về số lượng và lĩnh vực giám định (hầu hết các lĩnh vực đều có người giám định tư pháp được rà soát và công bố), trình độ chuyên môn của người giám định tư pháp được cải thiện và nâng lên đáng kể, công tác tiếp nhận trưng cầu và thực hiện giám định đã đáp ứng được cho hoạt động tố tụng... thì việc củng cố, phát triển đội ngũ cá nhân, tổ chức giám định tư pháp vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố tụng, cụ thể:
Thứ nhất, việc bổ nhiệm giám định viên tư pháp; lập và đăng tải danh sách người giám định tư pháp của các bộ, ngành chủ quản, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh vẫn chưa thực sự kịp thời, danh sách đội ngũ người làm giám định tư pháp được lập nhiều khi không sát với thực tế, chưa thực sự bảo đảm chất lượng, chưa sát với nhu cầu của hoạt động tố tụng, một phần nguyên nhân vì thiếu thông tin, số liệu cụ thể từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Hiện nay, công tác rà soát, bổ nhiệm và công bố danh sách cá nhân, tổ chức giám định tư pháp đang thực hiện theo quy trình các tổ chức công lập bổ nhiệm giám định viên tư pháp thì áp dụng theo quy định của Điều 7 Luật Giám định tư pháp năm 2012; các bộ, ngành không có tổ chức giám định tư pháp công lập thì lập danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc căn cứ vào quy định tại Điều 18 Luật Giám định tư pháp năm 2012 và thông tư của bộ, ngành mình quy định về tiêu chuẩn, trình tự bổ nhiệm giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc. Như vậy, hiện nay, hầu hết các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đang thực hiện quy trình nêu trên theo hình thức cán bộ, công chức nào đủ điều kiện là bổ nhiệm hoặc đưa vào danh sách rà soát, công bố chung hàng năm. Tổ chức nào đủ điều kiện theo quy định thì có thể được công bố là tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc. Bên cạnh đó, cơ quan tố tụng với vai trò là bên sử dụng kết luận giám định có quyền và nghĩa vụ phải đưa ra đánh giá về việc sử dụng kết luận giám định (kết luận nào rõ ràng, tiệm cận gần nhất tới kết quả vụ án, kết luận nào còn chung chung, né tránh, chưa thực sự đầy đủ...); thống kê, dự báo nhu cầu về người và lĩnh vực cần giám định để các bộ, ngành chủ quản và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể căn cứ vào nội dung dự báo đó để tiếp tục bổ nhiệm, rà soát, lập và đăng tải danh sách tổ chức, cá nhân giám định tư pháp cho phù hợp. Hiện nay, nhiệm vụ này mặc dù đã được giao cho cơ quan tố tụng nhưng chưa được quan tâm thực hiện kịp thời.
Thứ hai, phần lớn đội ngũ người làm giám định tư pháp tại một số lĩnh vực ngoài các lĩnh vực có tổ chức giám định tư pháp chuyên trách chưa được các bộ, ngành chủ quản đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu về giám định chuyên ngành, mà chủ yếu dựa vào kiến thức chuyên môn thuần túy để vận dụng vào thực hiện giám định, nên còn khá lúng túng, khó khăn khi thực hiện giám định. Các giám định viên kiêm nhiệm thì chủ yếu làm công tác chuyên môn do cơ quan chủ quản phân công, không đủ thời gian và điều kiện tập trung vào công tác giám định khi có yêu cầu. Nhiều trường hợp người giám định tư pháp chưa được sự hỗ trợ từ phía cơ quan, người quản lý và có tâm lý e ngại, không muốn làm giám định vì trách nhiệm pháp lý rất cao[1], trong khi các điều kiện để thực hiện giám định chưa bảo đảm. Nội dung này cũng là khó khăn chung của người giám định tư pháp trên toàn quốc. Hầu hết, người giám định tư pháp đều kiến nghị Sở Tư pháp tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp lý và nghiệp vụ giám định tư pháp nhằm nâng cao nghiệp vụ chuyên sâu về giám định tư pháp. Tuy nhiên, khi Cục Bổ trợ tư pháp (cơ quan giúp Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác giám định tư pháp) tổ chức thì rất nhiều địa phương lại không cử người đi, có thể do công việc chuyên môn quá bận hoặc lãnh đạo sở, ngành chưa thực sự thấy việc bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ về giám định tư pháp là cần thiết. Có trường hợp cơ quan trưng cầu giám định ra quyết định trưng cầu giám định nhưng nhiều tháng sau, bộ, ngành chủ quản chưa cử được giám định viên hoặc đưa ra các lý do không chính đáng để từ chối cử giám định viên, đùn đẩy trách nhiệm khiến cơ quan điều tra phải nhiều lần ra văn bản yêu cầu[2]. Bỏ qua các lý do về công tác phối hợp và ý chí chủ quan muốn đùn đẩy, né tránh của cơ quan được trưng cầu, thì việc tìm kiếm, lựa chọn người giám định nào là phù hợp để có thể đảm đương được vụ việc giám định do cơ quan tố tụng trưng cầu đóng vai trò vô cùng quan trọng. Có một số bộ, ngành cũng đã từng có ý kiến tại các cuộc họp liên ngành, thậm chí ý kiến bằng văn bản rằng khi có trưng cầu của cơ quan tố tụng, đặc biệt là những vụ việc có tính chất phức tạp, họ thường xuyên phải rà soát và lựa chọn rất “đau đầu” mới có thể tìm ra người phù hợp để thực hiện giám định, bởi dù đã tìm ra người có kinh nghiệm chuyên môn tốt nhưng kinh nghiệm giám định về lĩnh vực đó lại chưa nhiều càng khiến cho cơ quan chủ quản phải thận trọng cân nhắc, đánh giá vì những người giám định tư pháp phải chịu trách nhiệm cá nhân tới cùng như phân tích ở trên. Đây cũng là một trong những nguyên nhân tạo ra tâm lý lo ngại, sợ rủi ro khi kết luận giám định ở một số lĩnh vực phức tạp hiện nay như tài chính, ngân hàng, tài nguyên - môi trường, thuế...
Thứ ba, tại Điều 10 Luật Giám định tư pháp năm 2012 quy định các trường hợp miễn nhiệm giám định viên tư pháp, tuy nhiên, không quy định trường hợp miễn nhiệm do chuyển công tác đến đơn vị khác và không còn thực hiện hoạt động giám định hoặc trường hợp giám định viên tư pháp nếu là công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng có quyết định nghỉ việc để hưởng chế độ hưu trí hoặc thôi việc thì họ phải có đơn đề nghị miễn nhiệm gửi cơ quan chủ quản dẫn đến số lượng giám định viên tư pháp theo thống kê hằng năm không phản ánh đúng số lượng giám định viên đang hoạt động thực tế tại bộ, ngành và địa phương...
Vậy làm thế nào để công tác bổ nhiệm, lập, công bố danh sách tổ chức, cá nhân giám định tư pháp có thể có đóng góp tích cực vào việc củng cố và tăng cường đội ngũ giám định tư pháp đồng thời khắc phục triệt để được các hạn chế nêu trên? Trên thế giới, một số nước (như Đức, Pháp, Nhật Bản, Vương quốc Anh, Trung Quốc...) đã tiến trước chúng ta một bước, công tác rà soát, bổ nhiệm và phát triển tổ chức, cá nhân giám định tư pháp của họ đã khắc phục những hạn chế mà Việt Nam đang gặp phải bằng việc thay đổi quy trình bổ nhiệm, công nhận giám định viên tư pháp của họ đều phải căn cứ vào nhu cầu thực tế của hoạt động tố tụng. Hàng năm, các cơ quan tiến hành tố tụng phải có đánh giá và dự báo về nhu cầu giám định ở từng lĩnh vực giám định. Trên cơ sở đó, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bổ nhiệm hoặc công nhận giám định viên tư pháp sẽ xác định số lượng giám định viên cần bổ nhiệm hoặc công nhận và tiến hành các công việc cần thiết cho việc tìm kiếm, lựa chọn các nhà chuyên môn để có thể bổ nhiệm hoặc công nhận cho phù hợp với đánh giá và dự báo nêu trên của cơ quan tố tụng. Trình tự, thủ tục bổ nhiệm hoặc công nhận giám định viên được tiến hành rất chặt chẽ nhằm bảo đảm chất lượng giám định viên. Áp dụng quy trình nêu trên sẽ khiến cho số lượng giám định viên mới được bổ nhiệm, người giám định tư pháp được rà soát, công bố luôn sát với thực tế của nhu cầu tố tụng. Nói một cách đơn giản là cơ quan tố tụng muốn tăng người giám định ở đâu, giảm ở đâu, nâng cao chất lượng đội ngũ này như thế nào thì cần phải đưa ra yêu cầu của mình, căn cứ vào yêu cầu đó, cơ quan, tổ chức mới có thể bổ nhiệm hoặc rà soát cho phù hợp. Đặc biệt, để tránh tình trạng như hiện nay các bộ, ngành ở trung ương và Ủy ban nhân cấp tỉnh hằng năm đều bổ nhiệm rất nhiều nhưng khi cần tìm thì vẫn không ra được người phù hợp, rồi tình trạng cơ quan tố tụng ở địa phương mặc dù số lượng người được rà soát, công bố khá nhiều nhưng không đáp ứng được cho hoạt động tố tụng nên chỉ tập trung trưng cầu một số bộ, cơ quan ngang bộ, gây quá tải cho các cơ quan này khiến cho thời gian thực hiện giám định bị kéo dài... Ở một số nước, mặc dù có sự khác nhau về cách thức, thủ tục bổ nhiệm hoặc công nhận, ghi danh giám định viên giữa các nước nhưng các tiêu chí, điều kiện để trở thành người giám định của các nước về cơ bản là giống nhau.
Căn cứ vào một số khó khăn, vướng mắc trong công tác bổ nhiệm, miễn nhiệm, rà soát và công bố tổ chức, cá nhân giám định tư pháp nêu trên, Điều 10 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp năm 2020 đã bổ sung một số trường hợp miễn nhiệm nhằm giúp cho số lượng giám định viên tư pháp được thống kê hằng năm sẽ phản ánh đúng số lượng giám định viên đang hoạt động thực tế tại bộ, ngành và địa phương. Điều 20 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp năm 2020 quy định cơ quan có thẩm quyền ra quyết định công nhận người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc thay vì chỉ lập và công bố danh sách như hiện nay. Các quy định này nhằm chuẩn hóa đội ngũ giám định viên tư pháp, người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp. Tiếp đó, tại Tờ trình số 51/TTr-BTP ngày 27/8/2020 của Bộ Tư pháp trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp, Bộ Tư pháp cũng đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo một số nhiệm vụ:
Một là, đề nghị Tòa án nhân dân tối cao sớm ban hành văn bản hướng dẫn về căn cứ, cách thức xem xét, đánh giá, sử dụng kết luận giám định trong hoạt động tố tụng (Phần II, Mục 3). Căn cứ đánh giá này của Tòa án nhân dân tối cao, các cơ quan có liên quan mới có cơ sở để có thể tiến hành các bước nhằm củng cố, phát triển đội ngũ người làm giám định tư pháp, gắn hoạt động bổ nhiệm, rà soát, công bố, đăng tải danh sách tổ chức, cá nhân giám định tư pháp với hoạt động tố tụng, giảm thiểu việc trưng cầu ở địa phương đổ dồn về các bộ, ngành ở trung ương.
Hai là, đối với nhiệm vụ củng cố, phát triển đội ngũ cá nhân, tổ chức giám định tư pháp theo hướng gắn với nhu cầu giám định thực tế của hoạt động tố tụng (rà soát, đổi mới quy trình bổ nhiệm, cấp thẻ giám định viên tư pháp và công nhận, đăng tải danh sách người, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc; rà soát, cập nhật danh sách cá nhân, tổ chức giám định tư pháp) thì các cơ quan tiến hành tố tụng cấp Trung ương và cấp tỉnh có trách nhiệm cung cấp số liệu, dự báo nhu cầu giám định cho các cơ quan quản lý giám định tư pháp cùng cấp làm cơ sở cho việc rà soát, củng cố đội ngũ cá nhân, tổ chức giám định tư pháp.
Ba là, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm thực hiện rà soát, củng cố đội ngũ cá nhân, tổ chức giám định tư pháp theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp năm 2020.
Hy vọng rằng, sau khi Kế hoạch triển khai thi hành Luật được ban hành, cùng với sự nỗ lực của các bộ, ngành và địa phương công tác bổ nhiệm, lập và công bố danh sách cá nhân, tổ chức giám định tư pháp sẽ thực sự gắn với nhu cầu của hoạt động tố tụng; sẽ không còn tình trạng giám định viên tư pháp, người giám định theo vụ việc được bổ nhiệm nhưng cả đời công chức, viên chức của mình không được lựa chọn để thực hiện một vụ việc giám định nào.
Cục Bổ trợ tư pháp
[1]. Người giám định tư pháp có nghĩa vụ: Chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận giám định do mình đưa ra. Trường hợp cố ý đưa ra kết luận giám định sai sự thật gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì còn phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật (điểm g khoản 2 Điều 23 Luật Giám định tư pháp năm 2012).
[2]. Nhận định được đưa ra tại Tọa đàm “Việc thực hiện giám định tư pháp trong trường hợp cần phối hợp nhiều cơ quan, tổ chức”, do Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức ngày 21/02/2020.