Ở miền Nam, nghề Thừa phát lại còn tồn tại dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn cho tới năm 1975. Mô hình tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn tương tự mô hình này tại thời kỳ Pháp thuộc. Từ năm 2010, nghề Thừa phát lại được hình thành trở lại ở nước ta theo định hướng xã hội hóa các hoạt động thi hành án và bổ trợ tư pháp. Bài viết đề cập đến sự hình thành và phát triển của nghề Thừa phát lại theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và định hướng phát triển nghề Thừa phát lại trong thời gian tới, gồm những nội dung cơ bản sau: (i) Chủ trương của Đảng và Nhà nước về chế định Thừa phát lại; (ii) Tình hình, tổ chức và hoạt động Thừa phát lại từ năm 2010 đến nay; (iii) Một số nhiệm vụ cần triển khai thực hiện và định hướng phát triển Thừa phát lại trong thời gian tới.
Thừa phát lại trong thời kỳ Pháp thuộc và dưới chính quyền Sài Gòn trước đây đều có nhiệm vụ: Thông báo Tòa khai mạc và bế mạc, gọi các đương sự, nhân chứng, thi hành lệnh giữ trật tự tại Tòa (đây là các nhiệm vụ tại phiên Tòa) và tống đạt giấy tờ theo yêu cầu của Tòa án, lập các vi bằng theo quy định của pháp luật, phát mại động sản hay bất động sản và trực tiếp thi hành các bản án, quyết định của Tòa án (các nhiệm vụ này được thực hiện bên ngoài phiên Tòa).
Về tổ chức, Thừa phát lại là công lại do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm và quản lý, hành nghề trên cơ sở quy định của pháp luật, được hưởng thù lao của khách hàng theo biểu giá quy định. Khác với luật sư, Thừa phát lại không có quyền từ chối thi hành nhiệm vụ khi được yêu cầu nếu không có lý do chính đáng. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, Thừa phát lại chịu sự chỉ đạo trực tiếp của những người có trách nhiệm như: Chưởng lý, Biện lý, Thẩm phán, Lục sự. Hoạt động của Thừa phát lại được tổ chức thành văn phòng.
Sau năm 1954 ở miền Bắc và sau năm 1975 ở miền Nam, vì nhiều lý do khác nhau, Nhà nước ta không tiếp tục duy trì chế định Thừa phát lại. Việc tống đạt các văn bản, giấy tờ do chính cơ quan thi hành án và Tòa án thực hiện. Việc tổ chức thi hành các phán quyết về dân sự của Tòa án do hệ thống cơ quan thi hành án dân sự của Nhà nước thực hiện.
Từ năm 2010, nghề Thừa phát lại được hình thành trở lại ở nước ta theo định hướng xã hội hóa các hoạt động thi hành án và bổ trợ tư pháp. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đề cập đến sự hình thành và phát triển của nghề Thừa phát lại theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và định hướng phát triển nghề Thừa phát lại trong thời gian tới.
1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về chế định Thừa phát lại
Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, xã hội hóa một số nội dung công tác tư pháp, Đảng ta đã ban hành nhiều văn kiện quan trọng, trong đó đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW đã xác định rõ: “Nghiên cứu chế định Thừa phát lại, trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”.
Thể chế hóa chủ trương trên của Đảng, tại Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc hội về thi hành Luật Thi hành án dân sự đã quy định việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại. Từ năm 2010, các Văn phòng Thừa phát lại đã được thành lập và đi vào hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh. Sau hơn 02 năm thực hiện, tháng 8/2012, Chính phủ đã tổng kết, báo cáo Quốc hội. Trên cơ sở kết quả thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2013 về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, trong đó đã giao Chính phủ tiếp tục tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 đến hết ngày 31/12/2015 và tiến hành tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm, báo cáo để Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp cuối năm 2015.
Thực hiện Nghị quyết số 36/2012/QH13, cuối năm 2015, Chính phủ đã tiến hành tổng kết việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại. Trên cơ sở báo cáo, kiến nghị của Chính phủ, ngày 26/11/2015, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 107/2015/QH13 về thực hiện chế định Thừa phát lại. Nghị quyết số 107/2015/QH13 đã ghi nhận kết quả đạt được trong việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 và Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội; chấm dứt việc thí điểm và cho thực hiện chính thức chế định này trong phạm vi cả nước kể từ ngày 01/01/2016.
2. Tình hình, tổ chức và hoạt động Thừa phát lại từ năm 2010 đến nay
2.1. Hệ thống văn bản điều chỉnh tổ chức và hoạt động Thừa phát lại
Tổ chức và hoạt động Thừa phát lại được điều chỉnh trực tiếp bằng các văn bản pháp luật gồm: Các nghị quyết của Quốc hội (Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008, Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012, Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015); các nghị định của Chính phủ (Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh; Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP) và các thông tư hướng dẫn (Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/02/2014 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội; Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-BTP-NHNNVN ngày 17/01/2014 của Bộ Tư pháp và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại tại các tổ chức tín dụng; Thông tư số 12/2014/TT-BTP ngày 26/4/2014 của Bộ Tư pháp quy định về mẫu; nguyên tắc sử dụng trang phục; nguyên tắc cấp phát, sử dụng thẻ Thừa phát lại). Bên cạnh đó, hoạt động của Thừa phát lại còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật về thi hành án dân sự và pháp luật tố tụng.
2.2. Việc tổ chức, triển khai thực hiện
Trên cơ sở các nghị quyết của Quốc hội và các văn bản hiện hành, từ năm 2010, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, thống nhất ý kiến với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao lựa chọn, phê duyệt Đề án thực hiện thí điểm của 12 địa phương ngoài thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến nay, chế định Thừa phát lại đã được triển khai tại 13 địa phương gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Bình Dương, Đồng Nai, Tiền Giang, An Giang, Vĩnh Long.
Trên cơ sở nghị quyết của Quốc hội và các văn bản pháp luật về Thừa phát lại, Bộ Tư pháp cũng như các địa phương đã tổ chức hội nghị quán triệt, các phiên họp để đánh giá tình hình triển khai thực hiện, những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc và đề ra các giải pháp nhằm chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện tốt việc thí điểm. Tại các địa phương, Tỉnh ủy/Thành ủy và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại để chỉ đạo, xác định các nhiệm vụ, công việc cụ thể nhằm thực hiện hiệu quả việc thí điểm và tổ chức hội nghị quán triệt để triển khai thực hiện.
Trong suốt thời gian thực hiện từ năm 2010 đến năm 2015, Ban Chỉ đạo, các Bộ, ngành trung ương và địa phương luôn chú trọng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giới thiệu về Thừa phát lại. Bộ Tư pháp và các địa phương đã phối hợp với Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp triển khai thực hiện nhiều hoạt động tuyên truyền về chế định Thừa phát lại bằng nhiều hình thức khác nhau, như: Tổ chức hội nghị; phát hành tờ rơi, tờ gấp; tài liệu hỏi đáp, mở chuyên mục và đăng tải bài viết về Thừa phát lại; mở các đợt cao điểm tuyên truyền vào các dịp sơ kết, tổng kết...
Trong quá trình thực hiện, Ban Chỉ đạo Trung ương, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành đã có nhiều văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý đối với Thừa phát lại. Ở địa phương, các Tỉnh ủy/Thành ủy/Ban Chỉ đạo, Ủy ban nhân dân cũng đã ban hành chỉ thị, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn trong tổ chức và hoạt động Thừa phát lại; định kỳ tổ chức trao đổi thông tin, hướng dẫn giải quyết khó khăn, vướng mắc, kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót.
2.3. Kết quả đạt được
Trải qua 05 năm thực hiện chế định Thừa phát lại, kể từ năm 2010 đến nay, tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại đã thu được những kết quả đáng kể như sau:
Về tổ chức, tính đến nay, Bộ Tư pháp đã thực hiện bổ nhiệm 373 Thừa phát lại để hành nghề tại 13 tỉnh thực hiện chế định Thừa phát lại theo quy trình chặt chẽ, bảo đảm chất lượng đội ngũ Thừa phát lại, trong đó, riêng từ thời điểm Quốc hội ban hành Nghị quyết số 107/2015/QH13 đã thực hiện bổ nhiệm 53 trường hợp. Hiện đã có 53 Văn phòng Thừa phát lại được thành lập tại 13 tỉnh, thành nêu trên, tổng số nhân lực đang làm việc tại 53 Văn phòng Thừa phát lại là 638 người, trong đó có 145 Thừa phát lại, 306 thư ký nghiệp vụ và 197 nhân viên khác.
Về hoạt động, theo quy định của pháp luật thì hoạt động của Thừa phát lại gồm: Tống đạt văn bản của Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự và trực tiếp tổ chức thi hành án các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Tính đến ngày 30/9/2016 các Văn phòng Thừa phát lại đã tống đạt được hơn 1 triệu văn bản của Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự, lập gần 82.000 vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án gần 1.000 việc, trực tiếp tổ chức thi hành án gần 600 vụ việc, đạt tổng doanh thu là gần 220 tỷ đồng.
Nhìn chung, thời gian qua, việc triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, nghị quyết của Quốc hội trong giai đoạn thí điểm về chế định Thừa phát lại đã được các Bộ, ngành trung ương và địa phương thực hiện đúng, nghiêm túc và đã đạt được những kết quả tích cực. Hoạt động tống đạt của Thừa phát lại đã giúp giảm tải công việc, từ đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét xử và thi hành án. Hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại đã tạo thêm một công cụ pháp lý để người dân tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế và trong quá trình tố tụng. Hoạt động xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại đã giúp người dân có thêm công cụ hỗ trợ tích cực để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình tổ chức thi hành án, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Hoạt động trực tiếp tổ chức thi hành án của Thừa phát lại đã tạo điều kiện để người dân có thêm sự lựa chọn phù hợp với mong muốn, niềm tin của mình khi yêu cầu thi hành án dân sự; góp phần giảm tải cho cơ quan thi hành án dân sự, từ đó nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động này.
Có thể nói, hoạt động của Thừa phát lại đã góp phần bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong đời sống dân sự, trong quan hệ với cơ quan nhà nước và trong các hoạt động tố tụng; tạo môi trường pháp lý lành mạnh, đảm bảo các giao dịch dân sự, kinh tế đúng pháp luật, từ đó thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
2.4. Những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động Thừa phát lại còn có những khó khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế nhất định, cụ thể như: Việc triển khai thực hiện nghị quyết của Quốc hội còn chậm, công tác tuyên truyền vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu cho việc phục vụ thí điểm một chế định mới; kết quả hoạt động của một số Văn phòng Thừa phát lại còn chưa cao, chưa đồng đều ở các địa phương thí điểm và ở các mảng công việc, cụ thể: (i) Việc chuyển giao văn bản tống đạt giữa Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự với các Văn phòng Thừa phát lại không đều, không thường xuyên; việc thực hiện tống đạt văn bản còn sai sót, vi phạm; (ii) Một số trường hợp lập vi bằng không đúng thẩm quyền; chất lượng vi bằng chưa cao, còn có tâm lý chạy theo lợi nhuận; (iii) Kết quả hoạt động xác minh điều kiện thi hành án còn hạn chế, số lượng việc do Thừa phát lại thực hiện không nhiều và trong thời gian tới sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn nữa do hiện nay theo quy định tại Điều 44 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), thì nghĩa vụ xác minh điều kiện thi hành án thuộc về chấp hành viên (không phải là nghĩa vụ bắt buộc của đương sự như quy định trước đây), nên đương sự có thể sẽ hạn chế sử dụng dịch vụ này của Thừa phát lại; Thừa phát lại ít nhận được sự hợp tác của các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan; (iv) Số vụ việc trực tiếp tổ chức thi hành án còn ít, cá biệt có Văn phòng chưa tiếp nhận, tổ chức thi hành vụ việc nào; (v) Chuyên môn, nghiệp vụ tổ chức thi hành án dân sự của các Văn phòng Thừa phát lại còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm.
Những tồn tại, hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về nguyên nhân khách quan: Cả về mặt lý luận, pháp lý và thực tiễn còn đang trong quá trình thí điểm để có cơ sở nghiên cứu, hoàn thiện; việc xây dựng và hoàn thiện thể chế về Thừa phát lại là rất khó khăn, chưa thể ban hành đạo luật có hiệu lực pháp lý cao, đồng bộ với các bộ luật, luật có liên quan để điều chỉnh về vấn đề này; nhu cầu sử dụng dịch vụ này tại một số địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn chưa nhiều… Về nguyên nhân chủ quan: Nhận thức của một số cơ quan, cán bộ, công chức, kể cả ở trung ương về việc thí điểm chế định Thừa phát lại vẫn chưa đầy đủ; còn có tâm lý, tư tưởng băn khoăn, e ngại; đội ngũ Thừa phát lại, thư ký nghiệp vụ còn hạn chế về trình độ, năng lực...
3. Một số nhiệm vụ cần triển khai thực hiện và định hướng phát triển Thừa phát lại trong thời gian tới
Mặc dù còn một số tồn tại, hạn chế nhưng có thể nói, việc hình thành và phát triển nghề Thừa phát lại là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, đẩy mạnh cải cách tư pháp và xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp. Quá trình thực hiện thí điểm Thừa phát lại đã cung cấp nhiều dữ kiện, căn cứ mang tính khoa học và thực tiễn có giá trị để làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong việc xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp, nhất là trong lĩnh vực thi hành án dân sự, góp phần thực hiện tốt chủ trương của Đảng về xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp đã được đề ra tại Nghị quyết số 49-NQ/TW, tiến tới góp phần thực hiện thành công chủ trương về tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị.
Để tiếp tục duy trì và phát triển hơn nữa nghề Thừa phát lại, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 107/2015/QH13 về thực hiện chế định Thừa phát lại, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2016. Nghị quyết đã chính thức cho ra đời một nghề mới trong thị trường dịch vụ pháp lý, tạo thêm một công cụ pháp lý để người dân tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế và trong quá trình tố tụng. Nghị quyết số 107/2015/QH13 đã ghi nhận kết quả đạt được trong việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 và Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội; chấm dứt việc thí điểm và cho thực hiện chính thức chế định Thừa phát lại trong phạm vi cả nước kể từ ngày 01/01/2016; giao Chính phủ căn cứ tình hình thực tế ở địa phương, tổ chức thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi hành nghề theo quy định hiện hành, có sự sửa đổi, bổ sung cần thiết để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong hoạt động Thừa phát lại và chịu trách nhiệm tổ chức đào tạo nghề Thừa phát lại. Nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số 107/2015/QH13 và Quyết định số 101/QĐ-TTg ngày 14/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 107/2015/QH13, trong thời gian tới, cần thực hiện một số nhiệm vụ và định hướng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung các văn bản hiện hành về Thừa phát lại
Để bảo đảm cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thời gian thí điểm, Kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ xác định một trong những nhiệm vụ rất quan trọng là sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, cụ thể là sửa đổi, bổ sung Nghị định số 61/2009/NĐ-CP, Nghị định số 135/2013/NĐ-CP và các thông tư hướng dẫn hiện hành.
Trên cơ sở những kết quả đạt được cũng như những khó khăn, bất cập về tổ chức và hoạt động Thừa phát lại trong thời gian qua, chúng tôi cho rằng, cần xây dựng và hoàn thiện nghị định theo định hướng sau đây:
(i) Thừa phát lại là nghề bổ trợ tư pháp, hoạt động của Thừa phát lại có tác động đối với kinh tế - xã hội, đối với hoạt động tư pháp và nhu cầu của người dân. Do vậy, việc xây dựng đội ngũ Thừa phát lại cần phải hướng tới chuyên nghiệp; việc quản lý nhà nước đối với các hoạt động này phải bảo đảm hiệu quả, vừa tạo điều kiện hỗ trợ Thừa phát lại nhưng đồng thời phải kịp thời ngăn chặn, chấn chỉnh những vi phạm, sai sót. Bên cạnh đó, chế định Thừa phát lại được xây dựng trong mối tương quan, quan hệ với các nghề bổ trợ tư pháp khác.
(ii) Thừa phát lại là công lại được Nhà nước trao quyền để cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm.
(iii) Phạm vi hoạt động của Thừa phát lại được xây dựng trên cơ sở kế thừa các quy định trước đây về các công việc mà Thừa phát lại được làm; tuy nhiên, có nghiên cứu phát triển nội hàm trong từng hoạt động cụ thể để bảo đảm phục vụ tốt nhất cho nhu cầu của người dân, xã hội và tạo điều kiện để phát triển bền vững chế định này, cụ thể như sau: (a) Mở rộng phạm vi tống đạt văn bản của Thừa phát lại, theo đó, ngoài tống đạt văn bản của Tòa án và cơ quan thi hành án, Thừa phát lại còn được tống đạt văn bản của đương sự trong các vụ việc dân sự, hành chính; thực hiện tống đạt văn bản của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài theo quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp (theo Công ước La Hay năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại) và tống đạt văn bản của các cơ quan, tổ chức khác; (b) Mở rộng phạm vi lập vi bằng ra ngoài tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại so với quy định hiện hành; (c) Thừa phát lại có quyền xác minh điều kiện thi hành án liên quan đến việc thi hành án thuộc thẩm quyền thi hành của các cơ quan thi hành án dân sự trên phạm vi toàn quốc.
(iv) Quy định tối đa các trình tự, thủ tục đối với những hoạt động của Thừa phát lại nhằm tạo thuận lợi cho quá trình triển khai thực hiện.
Thứ hai, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ hành nghề Thừa phát lại
Một trong những tồn tại, hạn chế của việc triển khai thí điểm chế định Thừa phát lại, đó là: Đội ngũ Thừa phát lại, thư ký nghiệp vụ tuy phát triển nhanh về số lượng nhưng do tính chất là một nghề mới nên nhiều người còn hạn chế về trình độ, năng lực và kinh nghiệm nghề nghiệp, nên ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động, đặc biệt là những nghiệp vụ liên quan đến tố tụng của Tòa án, xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành án. Một phần nguyên nhân là vì trong thời gian thí điểm không có đủ thời gian, điều kiện đào tạo nghề Thừa phát lại một cách bài bản. Trong khi đó, công việc mà Thừa phát lại thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp đều liên quan đến hoạt động tố tụng, thủ tục đòi hỏi phải chặt chẽ và trong một số trường hợp phải sử dụng biện pháp cưỡng chế. Do vậy, việc nâng cao chất lượng đội ngũ Thừa phát lại trong bối cảnh hiện nay là yêu cầu tất yếu. Trên cơ sở rà soát tiêu chuẩn bổ nhiệm Thừa phát lại theo quy định hiện hành, cần sửa đổi, bổ sung theo hướng nâng cao tiêu chuẩn của Thừa phát lại nhằm tăng cường chất lượng, xây dựng đội ngũ Thừa phát lại có năng lực, chuyên môn, kinh nghiệm, hiểu biết pháp luật; có đạo đức và kỹ năng hành nghề tương đồng với các nghề bổ trợ tư pháp khác. Do vậy, muốn được bổ nhiệm Thừa phát lại, ngoài các tiêu chuẩn hiện hành, thì phải có chứng chỉ tốt nghiệp đào tạo nghề; có thời gian tập sự hành nghề tại các cơ quan thi hành án dân sự hoặc Văn phòng Thừa phát lại và không được kiêm nhiệm đấu giá viên, quản tài viên và những công việc thường xuyên khác. Thời gian đào tạo nghề Thừa phát là 06 tháng, thay vì chỉ tập huấn trong 02 tuần như trước đây và thời gian tập sự hành nghề là 06 tháng. Ngoài ra, trong quá trình hành nghề, Thừa phát lại bắt buộc tham gia các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên.
Thứ ba, triển khai thực hiện chế định Thừa phát lại ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Qua thời gian thực hiện thí điểm cho thấy, hoạt động Thừa phát lại còn gặp những khó khăn nhất định. Nghị quyết số 107/2015/QH13 của Quốc hội đã cho phép thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi cả nước kể từ ngày 01/01/2016, tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chế định Thừa phát lại phải được triển khai ở tất cả các địa phương.
Với mục tiêu bảo đảm sự tồn tại và phát triển bền vững của Văn phòng Thừa phát lại, thiết nghĩ, các địa phương cần cân nhắc kỹ việc đăng ký thực hiện hoặc mở rộng thực hiện chế định Thừa phát lại tại địa phương, hướng tới và bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của chế định này. Để chuẩn bị cho việc thực hiện chế định Thừa phát lại, các địa phương cần phải đánh giá sâu sắc cơ sở thực tiễn của địa phương như đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội; thói quen, nhu cầu và khả năng sử dụng các dịch vụ pháp lý nói chung và dịch vụ lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án và tổ chức thi hành án nói riêng, có sự đánh giá một cách toàn diện hoạt động tống đạt các loại văn bản của cơ quan thi hành án dân sự và Tòa án; về công tác thi hành các bản án, quyết định của Tòa án; về hoạt động xác minh điều kiện thi hành án dân sự, từ đó dự báo nhu cầu khả năng thực tế việc chuyển giao văn bản cho Thừa phát lại tống đạt và sự đồng lòng, quyết tâm cao của các cơ quan, tổ chức ở địa phương trong việc thực hiện chế định Thừa phát lại… bảo đảm nhận thức về việc thực hiện chế định này được thông suốt ở địa phương.
Bên cạnh đó, địa phương cũng cần phải xác định rõ lộ trình cụ thể trong việc định hướng và phát triển nghề Thừa phát lại, tính toán để xây dựng số lượng Văn phòng Thừa phát lại phù hợp được thành lập theo từng giai đoạn, tại các địa bàn cụ thể để đảm bảo vừa đáp ứng nhu cầu dịch vụ pháp lý của người dân và tổ chức nhưng vẫn phải bảo đảm các Văn phòng có thể tồn tại và phát triển được bền vững.
Thứ tư, tăng cường tổ chức quán triệt, triển khai, tập huấn về Nghị quyết số 107/2015/QH13 và các văn bản liên quan; tuyên truyền, phổ biến về chế định Thừa phát lại
Thừa phát lại là chế định mới, mặc dù đã có gần 05 năm thí điểm nhưng việc triển khai thực hiện vẫn còn rất khó khăn nên rất cần sự đồng thuận từ trung ương đến địa phương, sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền địa phương. Vì vậy, các Bộ, ngành và địa phương cần tiếp tục quan tâm, tổ chức quán triệt, triển khai đến các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức trên địa bàn tỉnh, thành phố để việc tổ chức thực hiện được thông suốt và đạt hiệu quả cao.
Thứ năm, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại
Có thể thấy rằng, mục tiêu của việc thực hiện chế định Thừa phát lại đã được xác định trong Nghị quyết 49-NQ/TW và Nghị quyết số 24/2008/QH12 là nhằm xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư pháp, triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên quan đến thi hành án dân sự. Hiện nay, các công việc do Thừa phát lại thực hiện (trừ lập vi bằng) bao gồm: Tống đạt giấy tờ, xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đều do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện. Do vậy, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại cần bám sát cơ sở thực tiễn về tổ chức và hoạt động Thừa phát lại và cần được nghiên cứu, đặt trong mối quan hệ với việc phát triển hệ thống cơ quan thi hành án dân sự.