
Bài 1: Gốc rễ văn hóa, pháp lý của tinh thần phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong lịch sử dân tộc
Trong lịch sử Việt Nam, tinh thần phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, đề cao liêm chính và đạo lý làm quan đã sớm trở thành giá trị văn hóa, pháp lý cốt lõi. Từ những chuẩn mực ứng xử được lưu truyền trong dân gian đến những điều răn “khắc cốt ghi tâm” trong gia huấn, hương ước làng xã; từ những lễ hội mang tính biểu tượng như Lễ hội Minh Thề - nơi quan dân cùng thề không tham nhũng - cho đến các điều khoản nghiêm khắc trong Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long,… tất cả đều phản ánh một truyền thống trị quốc đặt trọng tâm vào sự thanh liêm, cương trực, coi việc phụng sự quốc gia, dân tộc là lẽ tối thượng. Đó không chỉ là mệnh lệnh đạo đức mà còn là thiết chế pháp lý nhằm bảo vệ kỷ cương xã hội, giữ gìn nền chính trị trong sạch và ổn định.
Lễ hội Minh Thề và tinh thần phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực từ dân gian
Lễ hội Minh Thề có từ thời nhà Mạc, khoảng giữa thế kỷ XVI, nơi các quan lại địa phương thề không tham nhũng, không ức hiếp dân lành. Lời thề khắc trên bia đá, trước mặt thần linh và dân chúng, tạo nên một cơ chế “kỷ cương đạo đức” gắn với trách nhiệm công vụ. Đây là một hình thức giám sát xã hội mang tính đạo đức cộng đồng đặc thù của Việt Nam, nhấn mạnh đến danh dự và sự tự răn của người cầm quyền.
Sử sách lưu truyền, Lễ hội Minh Thề do Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toàn, vợ của Thái thượng hoàng Mạc Đăng Dung đề xướng. Bà chính là người đã tiếp thu lễ thề của các đời trước, xây dựng nên Lễ hội Minh Thề. Bà tự bỏ tiền và vận động hoàng thân, quốc thích, quan lại Triều Mạc cùng Nhân dân địa phương mua ruộng đất mở rộng khuôn viên và tu tạo lại ngôi chùa cổ của làng (chùa Hòa Liễu), nay thuộc thôn Hòa Liễu, xã Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
![]() |
Đài thề trong Lễ hội Minh Thề (Nguồn: baovanhoa.vn) |
Để không bị hụt tài sản công, Thái Hoàng Thái Hậu và dân làng lập ra Hội Minh Thề và Hịch văn Hội Minh Thề quy định lấy chí công làm trọng, không xâm phạm của công. Không phân biệt giàu - nghèo, đẳng cấp xã hội, những người đứng đầu trong làng (Lý trưởng, Phó lý, Chánh hội, Phó hội, Trương tuần) và dân làng gồm những người từ 18 tuổi trở lên đều tham gia hội thề. Trong Hịch văn Hội Minh Thề có quy định những điều được làm, phải làm và những điều không được làm cho tất cả các thành phần từ hương chức đến dân thôn.
Để lưu giữ những giá trị tốt đẹp của lịch sử, Lễ hội Minh Thề đã chính thức được khôi phục từ năm 2002, dựa trên nền cốt của Hội Minh Thề xưa. Đến năm 2017, nghi lễ này được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, trở thành một trong những lễ hội mang nghi thức “độc nhất vô nhị” ở Việt Nam[1]. Lễ hội không chỉ góp phần gìn giữ nét đẹp văn hóa truyền thống, mà còn làm phong phú thêm bản sắc của miền quê Thuận Thiên[2] - vùng đất không chỉ mang tên gọi của một đơn vị hành chính, mà còn gợi nhắc sâu xa về tinh thần: “Dĩ công vi công, chư thần ủng hộ; dĩ công vi tư, chư thần đả tử”. Đó là đạo lý muôn đời của chí công vô tư, lấy công tâm làm gốc, thuận thiên lý mà hành xử.
![]() |
Chủ lễ đọc Hịch văn Minh thề (Nguồn: daibieunhandan.vn) |
Pháp luật phong kiến và đạo làm quan
Thời xưa, cha ông ta rất quan tâm đến việc quy định trách nhiệm, đạo đức công vụ của quan lại trong quá trình làm việc. Để bảo đảm trách nhiệm, bổn phận, đạo đức của quan lại, các vương triều phong kiến đã luật hóa các quy tắc đạo đức của Nho giáo, đạo đức truyền thống của người Việt vào pháp luật. Sự luật hóa các quy tắc đạo đức đó phần nào tạo dựng được một đội ngũ quan lại có trách nhiệm. Theo thống kê trong hai bộ luật Quốc triều Hình luật thời Lê (hay còn có tên gọi là Bộ luật Hồng Đức) và Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn (hay còn gọi là Bộ luật Gia Long) có số lượng điều khoản đề cập đến trách nhiệm, đạo đức của quan chức chiếm tỷ lệ đáng chú ý. Cụ thể: Quốc triều Hình luật có 216/722 điều khoản (chiếm 29,92%); Hoàng Việt luật lệ có 180/396 điều khoản (chiếm 45,45%) đề cập đến đạo đức của quan chức đối với vua, đồng liêu, dân, bản thân và công việc. Các quy định đó đã tạo dựng được một đội ngũ quan lại minh trung, có trách nhiệm trong công việc, với dân[3].
Quốc triều Hình luật quy định rõ các hành vi quan lại lợi dụng chức quyền để vụ lợi, tham nhũng như: Nhận hối lộ, đòi hối lộ, sách nhiễu dân, gây khó dễ cho việc thu chi, giấu đất công, giấu đồ vật của công, chiếm ruộng đất công, sử dụng đất công quá hạn định, chiếm đoạt đất đai của lương dân, tự tiện đặt thêm quan chức, tự tiện thuyên chuyển quan dưới quyền, tự tiện sai khiến dân đinh, bắt dân phu làm việc riêng, lấy của dân vào việc riêng, dùng quân nhu vào việc riêng, tùy tiện thu thuế của dân, tự ý thu đồ vật của con nợ, đi công cán về tâu trình không đúng thực, chậm trễ, sao nhãng việc công, thi hành sắc lệnh không nghiêm… Ứng với mỗi hành vi đều có những hình thức xử lý nghiêm khắc, tùy thuộc vào tính chất, mức độ và nhân thân, sự cống hiến của quan chức.
![]() |
Quốc triều Hình luật (Nguồn: Nhandan.vn) |
Quốc triều Hình luật quy định rõ hình phạt đối với hành vi tham ô, nhận hối lộ, kể cả tội “bao che cho người có tội vì hối lộ”. Ví dụ: Tại Điều 626 quy định: “Các quan đại thần, quan hành khiển cùng các quan coi ngục tụng, nếu kẻ tội nhân xét tình đáng thương, nên được vua ân tha cho mà lại tự nhận là ơn của mình, để đòi hối lộ, thì xử tội đồ, tội lưu hay tội chết”; Điều 97 quy định về trường hợp bổ nhiệm, tuyển dụng, thuyên chuyển quan chức và người làm việc trong các cơ quan nhà nước không đúng quy định: “Quan lại đặt ra có số nhất định, nếu bổ dụng hay đặt ra quá hạn định, hay không nên đặt ra mà đặt ra (nghĩa là không tâu xin) thì thừa một viên phải phạt 60 trượng, biếm hai tư và bãi chức; thừa hai viên trở lên thì thì xử tội đồ, người sau biết mà để yên thì xử tội nhẹ hơn người trước một bậc”…
Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) có nhiều quy định về tố cáo, khen thưởng, giám sát và trừng trị tội tham ô, tham nhũng. Bộ luật Gia Long căn cứ trên cấp bậc, chức vụ để định mức tội và hình phạt, ở cùng một mức độ vi phạm, mỗi đối tượng quan lại sẽ có một mức hình phạt tương ứng. Những viên quan nào đến mức bị tước bỏ bằng, sắc, cáo của vua ban và bị xóa tên trong sổ bộ quan là bị bãi chức hoàn toàn. Còn lại tùy thuộc vào số lượng tiền của nhận hay chưa nhận mà có hình thức trách tội khác như lưu đày, đồ, bãi nhiệm, đánh đòn.
Quyển 17 (Hình luật) tại Điều 4 viết về mục nhận đút lót: “Phàm chưa trực tiếp với sự việc mà quan lại hứa nhận tiền của, nếu làm cong luật pháp thì xử theo chỗ cong đó, còn việc không làm cong luật pháp thì xử theo chỗ không cong”[4],
Bộ luật Gia Long cũng có những quy định đối với người đi tố cáo hành vi tham nhũng. Nếu họ đi tố cáo người phạm tội thì tùy theo hành vi và tài sản của người phạm tội mà Nhà nước thưởng tiền hay tài sản cho người đi tố cáo. Quyển 8 (Hộ luật) tại Điều 1 viết về mục khóa trình, luật viết: “Phàm khách buôn trốn thuế, không nộp khóa trình thì phạt 50 roi, lấy một nửa đồ đạc, hàng cho quan, trong các đồ nhập vào kho ấy, lấy ra 03 phần thưởng cho người đi tố cáo”.
![]() |
Mộc bản Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) (Nguồn: tcnn.vn) |
Bên cạnh việc quy định về tội và hình phạt trong các bộ luật, các triều đại phong kiến còn quy định về cơ chế hồi tỵ[5]. Trong lịch sử phong kiến, Lê Thánh Tông (1442 - 1497) là vị vua đầu tiên thực hiện hóa các quy định hồi tỵ trong nỗ lực đổi mới thể chế chính trị và quan chế. Quốc sử ghi lại quá trình xây dựng luật, nhà vua xuống chiếu “cấm quan lại lấy đàn bà, con gái trong bộ hạt” (năm Hồng Đức thứ 17 - 1486); “các quan phủ, huyện, châu, hễ là anh em ruột con chú con bác, bác cháu, cậu cháu, thì chỉ cho một người làm xã trưởng để trừ tệ bè phái hùa nhau” (1488). Đối tượng thực hiện hồi tỵ thời Lê Sơ là các quan đứng đầu bộ máy, chính quyền địa phương. Các nội dung hồi tỵ sau được luật hóa trong Quốc triều Hình luật.
Dưới triều Nguyễn, kinh nghiệm áp dụng luật hồi tỵ được nâng thành phương châm dùng người đó là: “Khi đã dùng người khoa bảng, triều đình thường giao nhiều trọng trách khác nhau để họ có điều kiện luân chuyển, rèn luyện, thử thách, mài dũa, trưởng thành”.
Những điều luật trong các bộ luật thời phong kiến quy định về các tội tham ô, nhận hối lộ, việc xử và phòng ngừa tham nhũng cho thấy, quan điểm phòng, chống tham nhũng của các thời đại phong kiến Việt Nam khá toàn diện, làm tiền đề cho công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ngày nay.
Án xử thời phong kiến và những bài học lịch sử
Không dừng lại ở quy phạm, các triều đại phong kiến Việt Nam đã từng bước hiện thực hóa tinh thần chống tham nhũng bằng những vụ án cụ thể, thể hiện thái độ kiên quyết, công minh trong xử lý quan lại thoái hóa, biến chất. Không ít án xử nêu gương ở triều Lê, triều Nguyễn đã khẳng định quyết tâm giữ sạch bộ máy quan lại, coi liêm chính là chuẩn mực sống còn của quốc gia. Những bản án nghiêm khắc được ghi lại trong chính sử không chỉ mang tính răn đe mà còn truyền đi thông điệp: Không ai đứng trên luật pháp, dù quyền cao chức trọng.
Theo sách “Đại Nam thực lục”, tháng 12/1854, thương nhân Trung Quốc là Chu Trung Lập đã tố giác nhiều quan lại triều đình ăn đút lót của thuyền buôn ngoại quốc ở Quảng Nam. Biết tin, vua Tự Đức lập tức phái quan Quản viện đô sát cầm đầu đoàn thanh tra triều đình đến Quảng Nam điều tra làm rõ. Kết quả, những tố giác là có thật. Án được trình lên, chiếu theo Bộ luật Gia Long, 17 người bị xử tội giảo giam hậu (bắt thắt cổ chết nhưng còn tạm giam đợi lệnh), 25 người bị tội lưu đày, 12 người bị tội làm lao dịch, 08 người bị phạt đánh gậy và cách chức. Trong vụ án này, nhiều quan lớn bị kết tội như: Tham tri Bộ Hộ Phan Tĩnh, nguyên Bố chánh Đào Trí Phú, nguyên đốc học Phan Bật chia nhau 60 lạng bạc bị tội lưu đày. Tri phủ Điện Bàn là Nguyễn Bá Đôn ăn hối lộ 12 lạng bạc, án sát Đặng Kham nhận đút lót 82 lạng bạc. Sau khi bị bắt giam, Đặng Kham lâm bệnh chết trong tù. Theo các tài liệu lịch sử lưu lại, đây là vụ án xử tội nhận hối lộ lớn nhất ở nước ta thời kỳ phong kiến[6].
![]() |
Vua Tự Đức quyết định tử hình viên quan tham nhũng bằng một bài thơ với những câu như: Một ngày một đồng / Ngàn ngày ngàn đồng/ Dây cưa đứt gỗ / Nước giọt thủng đá / Tội không dung tha / Lệnh truyền xử chém. (Nguồn: vanvn.vn) |
Không chỉ trừng phạt, một số triều đại còn có hình thức nêu gương, thưởng cho quan liêm chính, từ chối hối lộ. Như vậy, có thể thấy, ở mỗi triều đại phong kiến khác nhau đều đã có những biện pháp khá toàn diện, hiệu quả để ngăn ngừa và xử lý tệ tham nhũng trong đội ngũ quan lại triều đình. Hệ thống những biện pháp, hình phạt đó đã góp phần quan trọng giúp các triều đại phong kiến Việt Nam phòng, chống tham nhũng hiệu quả, đặc biệt vào những giai đoạn thịnh trị./.
Hoàng Lan, Vũ Quỳnh, Hoàng Trung
Bài 2: Từ lời Bác dạy đến đường lối, hành động của Đảng và Nhà nước trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Bài cuối: Từ bài học đến hành động – Chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực không chỉ bằng pháp luật.
Tài liệu tham khảo:
1. Hịch văn Hội Minh Thề tại Khu di tích đền chùa Hòa Liễu, xã Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
2. Mai Dung, Độc đáo lễ hội Minh Thề - thề không tham nhũng ở Hải Phòng, https://laodong.vn/van-hoa-giai-tri/doc-dao-le-hoi-minh-the-the-khong-tham-nhung-o-hai-phong.
3. Phạm Thị Thu Hiền, Những giá trị của quan chế thời phong kiến đối với việc hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6/2022.
4. Nguyễn Văn Thành, Vũ Trịnh, Trần Hữu (1994), Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long), tập V, bản dịch của Nguyễn Quang Thái, và Nguyễn Văn Tài, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
5. Nguyễn Thanh Điệp, Án tham nhũng kinh động nước Việt thời phong kiến, https://giaoducthoidai.vn/an-tham-nhung-kinh-dong-nuoc-viet-thoi-phong-kien-post725712.html.
Mai Dung, Độc đáo lễ hội Minh Thề - thề không tham nhũng ở Hải Phòng, https://laodong.vn/van-hoa-giai-tri/doc-dao-le-hoi-minh-the-the-khong-tham-nhung-o-hai-phong, truy cập ngày 30/6/2025.
Trước khi thực hiện Nghị quyết số 1669/NQ-UBTVQH15 ngày 16/6/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của thành phố Hải Phòng năm 2025, Lễ hội Minh Thề được tổ chức tại thôn Hòa Liễu, xã Thuận Thiên, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
Phạm Thị Thu Hiền, Những giá trị của quan chế thời phong kiến đối với việc hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6/2022.
Nguyễn Văn Thành, Vũ Trịnh, Trần Hữu (1994), Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long), tập V, bản dịch của Nguyễn Quang Thái, và Nguyễn Văn Tài, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Hồi tỵ là từ Hán Việt cổ, theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “hồi” là đi trở về; “tỵ” là lánh ra. Hồi tỵ có nghĩa là lánh đi. Theo từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh, hồi tỵ là tránh đi. Người làm quan đứng đầu địa phương, nếu có họ hàng là thuộc liêu ở đó thì quan chức ấy phải được đổi bổ đi nơi khác (nguồn: Đào Bích Hành - Tạp chí Khoa học Trường Đại học Quy Nhơn, số 4 - Tập VII, năm 2013).
Nguyễn Thanh Điệp, Án tham nhũng kinh động nước Việt thời phong kiến, https://giaoducthoidai.vn/an-tham-nhung-kinh-dong-nuoc-viet-thoi-phong-kien-post725712.html, truy cập ngày 30/6/2025.