Summary: During the investigation and prosecution process of criminal cases, Investigation Agencies and People’s Procuracies have different functions and responsibilities but have close legal relationship. This is an important criminal procedure relationship which must be clearly and explicitly defined by the criminal procedure law in order to avoid overlapping of functions and tasks, ensuring the principle of organization and operation of the socialist state. To implement the Vietnamese Communist Party’s viewpoint on judicial reform on “strengthening the prosecutors’s responsibility for investigation activities and attaching prosecution activities to investigation activities”, the provisions of the criminal procedure law express that the relationship between the Investigation Agencies and the People’s Procuracies is constantly being improved. Especially, there are new provisions in the Criminal Procedure Code of 2015 to renew the criminal procedure relationship between the Investigation Agencies and the People’s Procuracies in the direction of practicality, effectiveness, strengthening coordination relations along with assigning functions and tasks clearly and coherently, inspecting and supervising each other in the implementation of state power. In this article, we focus on analyzing some provisions of the Criminal Procedure Code to draw out the principles, contents and forms of criminal procedure relationships between the Investigation Agencies and the People’s Procuracies.
Quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát là mối quan hệ quan trọng trong tố tụng hình sự, là biểu hiện của nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. Mối quan hệ này được hình thành ngay từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, tồn tại trong toàn bộ quá trình điều tra (kể cả điều tra lại, điều tra bổ sung), nếu được vận hành tốt, nhịp nhành, hiệu quả sẽ góp phần bảo đảm việc phát hiện tội phạm, điều tra, xử lý các vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, tiết kiệm thời gian và chi phí vật chất trong hoạt động tố tụng hình sự. Vì vậy, tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết các Đại hội lần thứ XI và XII của Đảng đều xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm cải cách tư pháp là: “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”.
Thể chể hóa quan điểm cải cách tư pháp của Đảng, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có nhiều quy định mới nhằm đổi mới mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát theo hướng thiết thực, hiệu quả, tăng cường quan hệ phối hợp nhưng có phân công chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, rành mạch và có sự kiểm tra, chế ước nhau trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Nghiên cứu các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cho thấy, quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc và nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cùng phối hợp chặt chẽ trong điều tra vụ án hình sự để làm rõ tội phạm, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện tội phạm nhưng Viện kiểm sát giữ vai trò là cơ quan quyết định việc buộc tội
Phối hợp là một trong các hình thức và nguyên tắc hoạt động không thể thiếu giữa các cơ quan nhà nước. Trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát có quan hệ phối hợp trực tiếp với cả Tòa án, Cơ quan điều tra và Cơ quan thi hành án. Viện kiểm sát có quan hệ phối hợp với Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, vì hai cơ quan có chung mục đích là phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm một cách nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả và đúng pháp luật. Tuy nhiên, mỗi cơ quan có chức năng, nhiệm vụ khác nhau, nên sự phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không phải là hợp lực để cùng điều tra mà nó biểu hiện bằng sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đều được giao những nhiệm vụ, quyền hạn rất cụ thể, trong đó các quyết định tố tụng và hoạt động điều tra chủ yếu do Cơ quan điều tra tiến hành nhưng phải phối hợp với Viện kiểm sát để Viện kiểm sát thực hiện kiểm sát điều tra, bảo đảm hoạt động điều tra tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Ví dụ: Theo quy định tại các Điều 183, 189, 190, 191, 201, 202, 204 khi tiến hành các hoạt động hỏi cung, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra, Cơ quan điều tra phải báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết và cử kiểm sát viên tham gia các hoạt động điều tra trên; Cơ quan điều tra cũng phải thông báo, cung cấp cho Viện kiểm sát các tài liệu, chứng cứ thu thập được, tiến độ giải quyết vụ án hình sự, các vấn đề phức tạp phát sinh để phối hợp giải quyết; Cơ quan điều tra có trách nhiệm lập hồ sơ vụ án hình sự nhưng phải phối hợp chặt chẽ với Viện kiểm sát, vì hồ sơ vụ án là căn cứ pháp lý quan trọng để Viện kiểm sát ban hành các quyết định tố tụng hình sự và thực hành quyền công tố tại phiên tòa.
Trong quá trình kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát cũng phải có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra; đối với các hoạt động điều tra bắt buộc phải có sự tham gia của Viện kiểm sát, khi nhận được thông báo của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải kịp thời cử kiểm sát viên có mặt để kiểm sát hoạt động điều tra; thông báo kịp thời ban hành các quyết định, yêu cầu bảo đảm cho hoạt động điều tra được tiến hành một cách khẩn trương, đầy đủ, chính xác; kiểm tra các thủ tục tố tụng để phát hiện vi phạm và yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục, bổ sung.
Trong công tác phối hợp, Viện kiểm sát cũng phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, cân nhắc một cách toàn diện giữa yêu cầu chính trị, pháp luật, nghiệp vụ để phối hợp với Cơ quan điều tra khám phá, điều tra vụ án hình sự, không vì kiểm sát điều tra mà cản trở hoặc làm chậm tiến độ điều tra vụ án hình sự. Bên cạnh yêu cầu phân công rõ ràng, rành mạch về chức năng, nhiệm vụ, trong quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đòi hỏi phải có nguyên tắc để làm cơ sở hình thành những chuẩn mực pháp lý và cách ứng xử của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Về nguyên tắc của quan hệ phối hợp, Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội”. Điều đó có nghĩa là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chính thức đặt Viện kiểm sát vào vị trí là cơ quan “quyết định việc buộc tội”, quyền năng pháp lý mà Nhà nước giao cho duy nhất cơ quan Công tố thực hiện. Do đó, quy định này có tính nguyên tắc, khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hiện quyền lực tư pháp hình sự. Cùng với Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra cũng tham gia buộc tội, nhưng Viện kiểm sát đóng vai trò là cơ quan quyết định. Viện kiểm sát cần sử dụng kết quả hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra để quyết định việc buộc tội bị can tại phiên tòa. Bằng các biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật, Cơ quan điều tra phải thu thập đầy đủ chứng cứ để chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ toàn bộ nội dung vụ án, lập hồ sơ vụ án, làm cơ sở để Viện kiểm sát quyết định ra bản cáo trạng truy tố bị can trước phiên tòa; nếu quá trình điều tra không thu thập được đầy đủ chứng cứ, có thiếu sót thì Viện kiểm sát sẽ không tiến hành buộc tội bị can mà yêu cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra theo quy định của pháp luật.
Là cơ quan “quyết định việc buộc tội” nên Viện kiểm sát quyết định tội danh mà người phạm tội phải bị truy cứu theo quy định của Bộ luật Hình sự. Điều này được thể hiện qua việc Viện kiểm sát thực hiện phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra, nếu thấy Cơ quan điều tra khởi tố bị can chưa đủ căn cứ hoặc chưa phù hợp với tài liệu, chứng cứ thu thập được thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra hủy bỏ quyết định khởi tố bị can hoặc ra quyết định khởi tố bị can về một tội danh khác phù hợp hơn. Ngay cả khi Cơ quan điều tra đã hoàn tất việc điều tra, ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố bị can, nhưng nếu xét thấy không đủ căn cứ buộc tội, Viện kiểm sát sẽ trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung hoặc quyết định đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can nếu có căn cứ theo quy định của pháp luật...
Để tạo cơ sở pháp lý cho Viện kiểm sát thực hiện vai trò “quyết định buộc tội”, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung cho Viện kiểm sát nhiều chức năng, nhiệm vụ mới, đặc biệt là quy định Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Theo đó, khi Cơ quan điều tra tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Viện kiểm sát có quyền đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện; hủy bỏ quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm và các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của Cơ quan điều tra và nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của Bộ luật này nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội (các Điều 159, 160). Đến giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện để làm rõ tội phạm, người phạm tội; trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra để bổ sung tài liệu, chứng cứ khi phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục hoặc trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố (Điều 165); tham gia cùng Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra như: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, hỏi cung, đối chất, nhận dạng,... Những nhiệm vụ, quyền hạn trên xét cho cùng là để Viện kiểm sát chủ động nắm chắc và kiểm sát chặt chẽ toàn bộ quá trình điều tra vụ án, đưa ra quyết định buộc tội bị can đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, thuyết phục, hạn chế oan, sai ngay từ những giai đoạn đầu của tố tụng hình sự.
Thứ hai, mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát là mối quan hệ kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước trong điều tra vụ án hình sự
Kiểm soát quyền lực cũng là một nguyên tắc cơ bản của quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Bất cứ lĩnh vực nào có quyền lực nhà nước cũng cần phải có cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Cũng theo quy định tại Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, nhằm phát hiện vi phạm pháp luật, bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội. Thực chất hoạt động kiểm sát hoạt động điều tra, xét xử và thi hành án của Viện kiểm sát là việc kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động tư pháp hình sự. Để thực hiện chức năng hiến định quan trọng này, pháp luật tố tụng hình sự trao cho Viện kiểm sát các quyền hạn nhất định trong hoạt động điều tra, đó là: quyền giám sát, quyền yêu cầu và quyền hủy bỏ các quyết định, hành vi tố tụng không có căn cứ pháp luật của Cơ quan điều tra. Nghiên cứu các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cho thấy, các quyền năng này của Viện kiểm sát được biểu hiện các hình thức chủ yếu như sau:
- Viện kiểm sát thực hiện quyền giám sát hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra một cách trực tiếp, như việc kiểm sát các hoạt động: Khám nghiệm hiện trường (Điều 201); Khám nghiệm tử thi (Điều 202); Hỏi cung bị can (Điều 183)…; hoặc giám sát gián tiếp thông qua việc nghiên cứu hồ sơ, tài liệu phản ánh hoạt động điều tra. Quyền giám sát của Viện kiểm sát thể hiện rõ nhất trong việc kiểm sát các quyền năng và hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra bằng việc nhất trí hoặc không nhất trí với Cơ quan điều tra thông qua việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định tố tụng quan trọng của Cơ quan điều tra như: Quyết định khởi tố bị can (các điều 179, điều 180); Quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Điều 225); Quyết định áp dụng các biện pháp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110); Bắt bị can để tạm giam (Điều 113); Gia hạn tạm giữ (Điều 118),… Viện kiểm sát thực hiện quyền giám sát hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra từ trước đến nay vẫn được coi là một nguyên tắc trong tố tụng hình sự. Bởi vì, bất kỳ cơ chế hoạt động nào, quyền hạn nào cũng cần có sự kiểm tra, giám sát. Qua thực hiện quyền giám sát, Viện kiểm sát mới có cơ sở để xác định được hoạt động điều tra được thực hiện đúng hay sai, có khách quan, đầy đủ không.
- Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra khi thông qua hoạt động giám sát hoạt động điều tra mà phát hiện thấy việc điều tra chưa đầy đủ, chính xác hoặc có vi phạm pháp luật. Quyền yêu cầu của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra được thể hiện rõ nét trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, ví dụ: Trong những trường hợp xét thấy Cơ quan điều tra điều khởi tố bị can chưa khởi tố vụ án, khởi tố bị can hoặc khởi tố chưa đúng tội danh hoặc còn bỏ lọt tội phạm, thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can (khoản 1 Điều 165); yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (khoản 6 Điều 165); yêu cầu Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật (khoản 2 Điều 166); yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra khi cần thiết (khoản 4 Điều 166). Khi phát hiện việc điều tra không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra phải tiến hành hoạt động điều tra đúng pháp luật; kiểm tra việc điều tra và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát; cung cấp tài liệu liên quan đến hành vi, quyết định tố tụng có vi phạm pháp luật trong việc điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm trong việc khởi tố, điều tra; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên, cán bộ điều tra, xử lý nghiêm minh điều tra viên, cán bộ điều tra vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng (các khoản 5, 6, 7 Điều 166)... Cơ quan điều tra có trách nhiệm phải thực hiện các yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra.
- Viện kiểm sát có quyền huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của Cơ quan điều tra. Đây là một trong những quyền năng quan trọng mà pháp luật quy định cho Viện kiểm sát, là phương tiện của hoạt động kiểm sát, bảo đảm cho việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra. Trên thực tế, Viện kiểm sát chỉ thực hiện quyền năng này khi đã thực hiện quyền giám sát, quyền yêu cầu nhưng không có hiệu qủa hoặc khi Cơ quan điều tra không thể tự khắc phục được, ví dụ như: Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của Cơ quan điều tra (Điều 41); hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự và các quyết định tố tụng khác không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra (các điều 161, điều 165).
Đây là các quyền độc lập của Viện kiểm sát nhưng có mối liên hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau. Vì nếu chỉ có quyền giám sát mà không có quyền hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của Cơ quan điều tra thì quyền yêu cầu của Viện kiểm sát chỉ là hình thức; ngược lại, kết quả thực hiện quyền giám sát là tiền đề để Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu, quyền hủy bỏ. Không phải lúc nào Viện kiểm sát cũng thực hiện đầy đủ các quyền năng trên, nhất là khi hoạt động điều tra đã tuân thủ các quy định của pháp luật thì Viện kiểm sát chỉ thực hiện quyền giám sát đối với Cơ quan điều tra; khi Cơ quan điều tra tiến hành điều tra vụ án chưa đầy đủ hoặc có hoạt động tố tụng không có căn cứ, Viện kiểm sát sẽ thực hiện cả quyền giám sát, yêu cầu và hủy bỏ. Nhưng về mặt pháp lý, Viện kiểm sát cần có đầy đủ các quyền năng trên mới có khả năng kiểm soát trực tiếp, toàn diện và hữu hiệu hoạt động điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, góp phần quan trọng làm cho hoạt động điều tra tuân thủ các quy định của pháp luật, đồng thời phát huy được vai trò là cơ quan “quyết định việc buộc tội”, tăng cường trách nhiệm công tố trong giai đoạn điều tra, hạn chế oan, sai, bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức trong tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật.
Cục Pháp chế, Bộ Công an