Thứ sáu 20/06/2025 17:59
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quy định của pháp luật hiện hành về thương lượng tập thể và kiến nghị hoàn thiện

Trong quan hệ lao động, Nhà nước không ấn định trực tiếp mà chỉ điều tiết thông qua pháp luật bằng cách quy định các nguyên tắc, khung pháp luật tạo ra hành lang pháp lý làm cơ sở cho các bên thỏa thuận sao cho phù hợp với điều kiện và khả năng của mình.

Để đạt được thỏa thuận chung, các bên thông qua đại diện của mình tiến hành thảo luận, bàn bạc, thỏa thuận... gọi chung là thương lượng tập thể. Bài viết phân tích, đánh giá các ưu điểm, hạn chế của pháp luật hiện hành về thương lượng tập thể và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện.

1. Một số ưu điểm của của pháp luật hiện hành về thương lượng tập thể

Thứ nhất, thương lượng tập thể đã được quan tâm, quy định trong Bộ luật Lao động năm 2012.
Trên thế giới, thương lượng tập thể hình thành từ rất sớm - khoảng cuối thế kỷ thứ 18 và khởi phát mạnh từ nước Anh. Sau đó, thương lượng tập thể đã lan rộng và trở thành phổ biến ở các nước vào cuối thế kỷ 19. Đến năm 1981, Tổ chức Lao động quốc tế đã ban hành Công ước số 154 về xúc tiến thương lượng tập thể. Hiện nay, thương lượng tập thể được quy định trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới.

Ở Việt Nam, trước đây pháp luật lao động không quy định trực tiếp và cụ thể về thương lượng tập thể. Hiện nay, pháp luật đã quy định trực tiếp về vấn đề này tại Mục 2 Chương V Bộ luật Lao động năm 2012 (từ Điều 66 đến Điều 72). Các quy định đó đã tạo cơ sở pháp lý để các bên thương lượng tập thể.

Thứ hai, các quy định của pháp luật hiện hành về thương lượng tập thể là tương đối đầy đủ
Mặc dù mới lần đầu được đưa vào Bộ luật Lao động nhưng các các vấn đề về thương lượng tập thể đã được quy định tương đối đầy đủ như: Mục đích, nguyên tắc, đại diện, nội dung, quy trình... Cụ thể:

Về mục đích, thương lượng tập thể nhằm: Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ; xác lập các điều kiện lao động mới làm căn cứ để tiến hành ký kết thỏa ước lao động tập thể; giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.

Về nguyên tắc, thương lượng tập thể được tiến hành theo nguyên tắc: Thiện chí, bình đẳng, hợp tác, công khai và minh bạch; thương lượng tập thể được tiến hành định kỳ hoặc đột xuất; thương lượng tập thể được thực hiện tại địa điểm do hai bên thỏa thuận.

Về đại diện tham gia, bên tập thể lao động trong thương lượng tập thể phạm vi doanh nghiệp là tổ chứ đại diện tập thể lao động tại cơ sở ; thương lượng tập thể phạm vi nghành là đại diện Ban chấp hành công đoàn nghành.

Bên người sử dụng lao động trong thương lượng tập thể phạm vi doanh nghiệp là người sử dụng lao động hoặc người đại diện cho người sử dụng lao động; thương lượng tập thể phạm vi ngành là đại diện của tổ chức đại diện người sử dụng lao động ngành.

Về nội dung, nội dung của thương lượng tập thể gồm: Tiền lương, tiền thưởng, trợ cấp và nâng lương; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, làm thêm giờ, nghỉ giữa ca; bảo đảm việc làm đối với người lao động; bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động; thực hiện nội quy lao động; một số nội dung khác mà hai bên quan tâm.

Về quyền yêu cầu và trách nhiệm của các chủ thể có liên quan, mỗi bên đều có quyền yêu cầu thương lượng tập thể, bên nhận được yêu cầu không được từ chối việc thương lượng. Trường hợp một bên từ chối thương lượng hoặc không tiến hành thương lượng trong thời hạn quy định thì bên kia có quyền tiến hành các thủ tục yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo quy định của pháp luật.

Tổ chức công đoàn, tổ chức đại diện người sử dụng lao động và cơ quan quản lý nhà nước về lao động có trách nhiệm: Tổ chức bồi dưỡng kỹ năng thương lượng tập thể cho người tham gia thương lượng tập thể; tham dự phiên họp thương lượng tập thể nếu có đề nghị của một trong hai bên thương lượng tập thể; cung cấp, trao đổi các thông tin liên quan đến thương lượng tập thể.

Về quy trình quy trình thương lượng tập thể bao gồm: Chuẩn bị thương lượng; tiến hành thương lượng tập thể; công khai nội dung thương lượng tập thể và lấy ý kiến của tập thể lao động về các nội dung đã thỏa thuận.

2. Một số hạn chế của của pháp luật hiện hành về thương lượng tập thể và kiến nghị hoàn thiện

Thứ nhất, còn thiếu quy định về thương lượng tập thể ở phạm vi ngoài doanh nghiệp

Theo quy định của Bộ luật Lao động, thương lượng tập thể gồm hai cấp là thương lượng tập thể phạm vi doanh nghiệp và thương lượng tập thể phạm vi ngành. Trên thực tế, nhu cầu thương lượng tập thể có thể phát sinh ngoài doanh nghiệp như ở một khu chế xuất, công nghiệp hoặc một vùng. Bởi lẽ, điều kiện lao động và sử dụng lao động của các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp hoặc trong vùng về cơ bản là tương đồng nhau. Ở đó, nếu chỉ có thương lượng tập thể cấp doanh nghiệp thì có thể dẫn tới sự khác nhau trong thu nhập của người lao động làm cùng một nghề, cùng một khu vực trong các doanh nghiệp khác nhau. Vì vậy, thương lượng tập thể phạm vi ngoài doanh nghiệp sẽ giúp thu hẹp khoảng cách này, hạn chế các tranh chấp lao động, đình công xảy ra. Đây cũng là xu hướng chung của thế giới. Theo các công ước quốc tế và thực tiễn pháp luật của nhiều nước trên thế giới, thương lượng tập thể được quy định và thực hiện ở cấp doanh nghiệp, cấp vùng, cấp ngành. Vì vậy, cần bổ sung quy định về thương lượng tập thể cấp ngoài doanh nghiệp vào Bộ luật Lao động.

Thứ hai, chưa quy định cụ thể về đại diện thương lượng tập thể ngành của bên người sử dụng lao động.

Bên người sử dụng lao động trong thương lượng tập thể phạm vi ngành theo quy định của pháp luật hiện hành là “đại diện của tổ chức đại diện người sử dụng lao động ngành”. Vậy tổ chức nào là đại diện người sử dụng lao động ngành? Các nguyên tắc, tiêu chí, điều kiện, cách thức xác định tổ chức đại diện người sử dụng lao động? Chức năng, tổ chức, quyền và nghĩa vụ của tổ chức này là gì?

Xét theo một số văn bản đã ban hành trước đó, đại diện của người sử dụng lao động là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam. Tuy nhiên, các văn bản này mới chỉ xác định tên của tổ chức đại diện của người sử dụng lao động mà chưa quy định nguyên tắc, tiêu chí, điều kiện, cách thức xác định tổ chức đại diện của người sử dụng lao động cũng như chức năng, tổ chức hoạt động, quyền và nghĩa vụ của tổ chức này. Trong khi đó, đại diện thương lượng tập thể của bên tập thể lao động đã được quy định tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh. Do đó, cần có các quy định cụ thể về đại diện thương lượng tập thể ngành của bên người sử dụng lao động trong pháp luật lao động.

Thứ ba, còn thiếu quy định về sự hỗ trợ cho quá trình thương lượng tập thể

Bộ luật Lao động quy định, trường hợp thương lượng không thành một trong hai bên có quyền tiến hành các thủ tục giải quyết tranh chấp lao động (Khoản 4 Điều 71). Quy định này đã gắn thương lượng tập thể với quy trình giải quyết tranh chấp lao động tập thể, trong đó có thủ tục hòa giải, trọng tài. Tuy nhiên, đó chỉ là hòa giải, trọng tài bị động - hòa giải, trọng tài khi có yêu cầu của một hoặc hai bên tranh chấp, chứ không phải theo đề nghị của bên cung cấp dịch vụ hòa giải, trọng tài.

Nhằm góp phần hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động thương lượng tập thể đạt kết quả cao, pháp luật lao động của nhiều nước trên thế giới quy định hình thức hòa giải chủ động cho quá trình thương lượng tập thể. Đây là kinh nghiệm mà Việt Nam cần nghiên cứu, học tập, bởi lẽ, thương lượng tập thể là một quy trình tương tác khó khăn, rất dễ gặp bế tắc nên cần có sự hỗ trợ của bên trung gian thứ ba, khi cần thiết.

Kết luận

Thương lượng tập thể có vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì ổn định quan hệ lao động, bởi nó không chỉ đảm bảo quyền lợi các bên khi tham gia quan hệ lao động mà còn giúp các bên giải quyết những bất đồng về lợi ích. Khi lợi ích của các bên được đảm bảo thì quan hệ lao động được duy trì và phát triển hài hòa, tạo nền tảng vững chắc để phát triển. Vì vậy, pháp luật lao động về thương lượng tập thể cần được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện để điều chỉnh có hiệu quả các vấn đề về thương lượng tập thể, phù hợp với các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam.

ThS. Trần Đức Thắng

Trường Đại học Lao động - Xã hội

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ luật Lao động năm 2012.

2. Nghị định số 145/2004/NĐ-CP ngày 14/7/2004 của Chính phủ.

3. Các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 123/2003/QĐ-TTg ngày 12/6/2003; Quyết định số 75/2005/QĐ-TTg ngày 11/4/2005.

4. TS. Khuất Thị Thu Hiền - ThS. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2017), Hoàn thiện một số quy định về thỏa ước lao động tập thể ngành trong Bộ luật Lao động năm 2012, bài đăng Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 620 (kỳ 2 tháng 5/2017).

5. Th.S Nguyễn Huy Khoa (2017), Quy trình thương lượng tập thể trong quan hệ lao động ở Việt Nam hiện nay, bài đăng Trang thông tin điện tử Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

6. Tổ Biên tập dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi năm 2017), Một số vấn đề lớn của Bộ luật lao động (sửa đổi) còn nhiều ý kiến khác nhau, bài trình bày tại Hội thảo Góp ý hoàn thiện Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) do Viện Nghiên cứu lập pháp (Ủy ban Thường vụ Quốc Hội) và Quỹ Rosa Luxemburg (CHLB Đức) tổ chức tại Quảng Ninh, ngày 20-21/4/2017.


[1] Xem Điểm b Khoản 1 Điều 69 Bộ luật Lao động năm 2012.

[2] Xem Nghị định 145/2004/NĐ-CP ngày 14/7/2004 của Chính phủ; Quyết định số 123/2003/QĐ-TTg ngày 12/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số 75/2005/QĐ-TTg ngày 11/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm