Thứ ba 17/06/2025 02:19
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quy định pháp luật về công bố và bãi bỏ án lệ trong giải quyết các vụ việc dân sự ở Việt Nam

Quy định pháp luật về công bố và bãi bỏ án lệ trong giải quyết các vụ việc dân sự ở Việt Nam

Bài viết tập trung bàn về hoạt động công bố và bãi bỏ án lệ trong việc giải quyết các vụ việc dân sự ở Việt Nam trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật hiện hành.

1. Quy định pháp luật về công bố án lệ

Thứ nhất, về nội dung và hình thức án lệ được công bố.

Ở Việt Nam, mặc dù án lệ được ghi nhận trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhưng đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có quy định cụ thể về nội dung và hình thức án lệ. Hiện nay, án lệ của Việt Nam không phải là bản án gốc mà được viết lại dưới hình thức nhất định và được ban hành dưới hình thức khác so với bản án thông thường. Án lệ được công bố chỉ cần đáp ứng các nội dung theo khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ[1] (Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP).

Về nội dung, án lệ ở Việt Nam có sự khác biệt về nội dung so với các bản án. Những bản án, quyết định được lựa chọn trở thành án lệ sẽ được biên tập lại trước khi công bố. Do vậy, cấu trúc án lệ không tương đồng với nội dung của bản án nói chung và bản án, quyết định của Tòa án nhân dân tối cao nói riêng. Điều này khác hẳn với hình thức án lệ ở các nước theo truyền thống pháp luật Common Law (như Anh, Mỹ, Úc - Án lệ được lấy từ nguyên bản bản án gốc và được xuất bản thành một tập án lệ) và Civil Law (ở Pháp, chỉ những bản án, quyết định của các Tòa án đứng đầu trong hệ thống Tòa án mới có thể trở thành án lệ. Chính vì lẽ đó mà hình thức, cấu trúc bản án của Tòa phá án đồng thời là hình thức, cấu trúc án lệ. Ở Nhật, án lệ là các bản án của Tòa án nhân dân tối cao hội tụ đủ tiêu chuẩn và trở thành án lệ[2]).

Xây dựng án lệ theo cách làm ở Việt Nam có những ưu điểm nhất định. Đó là có thể loại bỏ các nội dung không phải là cốt lõi của bản án gốc và chỉ đưa ra nguyên tắc pháp lý cốt lõi của án lệ. Cách viết lại án lệ này thường giúp người đọc dễ dàng nắm bắt được vấn đề gây tranh cãi và nguyên tắc pháp lý. Tuy nhiên, cách thức này cũng tồn tại những nhược điểm như: Một số vấn đề gây tranh cãi về mặt pháp lý có trong bản án gốc có thể bị loại bỏ, bị bỏ sót; nội dung các án lệ có thể có sự không đồng nhất ở các thời điểm; nội dung chính của bản án gốc có thể bị sai lệch theo ý kiến của người biên tập và có thể dẫn đến kết quả là làm giảm phạm vi xem xét và nghiên cứu của các nhà nghiên cứu. Trong khi đó, giá trị cốt lõi của án lệ chính là nguyên tắc pháp lý phải được thể hiện trong án lệ[3].

Về hình thức, cũng như Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ, Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP không đưa ra các yêu cầu về hình thức án lệ. Điều này sẽ dẫn đến những khó khăn nhất định trong việc nâng cao chất lượng nguồn bản án, quyết định để phát triển án lệ và giảm tải việc phải biên tập lại bản án gốc để trở thành án lệ. Nếu có mẫu án lệ (như mẫu bản án, quyết định trong Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự) thì qua thực tiễn xét xử, trong trường hợp dự liệu khả năng bản án, quyết định được ban hành có thể phát triển thành án lệ, ngay từ đầu, thẩm phán sẽ lưu ý đến chất lượng viết bản án ở những nội dung cần phải có trong án lệ.

Khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP có đề cập đến nội dung công bố án lệ, trong đó có nhắc đến tên án lệ. Tuy nhiên, cách đặt tên án lệ vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể dẫn đến sự không thống nhất trật tự trong cách đặt tên như hiện nay, gây khó khăn cho việc tra cứu, tìm kiếm và sử dụng án lệ. Trong khi đó, pháp luật đã có quy định cụ thể về cách đặt tên cho bản án[4].

Thứ hai, về chủ thể công bố án lệ.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014[5] và khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP, ở Việt Nam, chủ thể có thẩm quyền công bố án lệ là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với những án lệ đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua. Như vậy, ở Việt Nam thừa nhận hình thức công bố chính thức từ Tòa án nhân dân tối cao và cụ thể là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trực tiếp công bố. Tuy nhiên, việc công bố chính thức án lệ ở Việt Nam có điểm đặc thù là nhằm xác định hiệu lực pháp lý của án lệ: “Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố”[6]. Đây là sự khác biệt của Việt Nam so với các nước khác trên thế giới. Ở hầu hết các nước sử dụng án lệ, công bố án lệ chính thức nhằm đưa nội dung án lệ đến công chúng, giúp cho các chủ thể khác nhau như các thẩm phán, luật sư... biết đến nội dung của án lệ (pháp luật) để thực hiện và có ý nghĩa xác định giá trị pháp lý của án lệ. Chỉ những lựa chọn và công bố bởi các cơ quan, tổ chức chính thức hoặc các tạp chí chính thức thì những bản án, quyết định mới có giá trị pháp lý để áp dụng cho các vụ việc tương tự về sau. Điều này nhằm minh bạch hóa hoạt động tư pháp (công bố các bản án, quyết định thông thường, không chứa đựng các giải pháp pháp lý mới) với hoạt động công bố án lệ[7].

Do đó, ở hầu hết các nước trên thế giới, việc công bố án lệ không nhằm xác định hiệu lực của án lệ và đa dạng hình thức công bố án lệ hơn ở Việt Nam (công bố án lệ tư nhân, bán chính thức, bán tư nhân). Điều này sẽ tạo điều kiện để mọi chủ thể, chuyên gia, công dân tiếp cận nhanh và nâng cao thói quen tiếp nhận, bình luận, sử dụng án lệ hơn.

Thứ ba, về cách thức công bố án lệ.

Án lệ được công bố bằng quyết định do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành[8] và Án lệ được đưa vào Tuyển tập án lệ để xuất bản[9]. Như vậy, án lệ ở Việt Nam không thuộc trường hợp công bố tất cả bản án, quyết định như ở các nước Tây Ban Nha, Na Uy, Hàn Quốc. Việt Nam cũng không thuộc các quốc gia có cách thức công bố bằng tuyển tập có chọn lọc các bản án, quyết định nào là án lệ như hầu hết các nước theo truyền thống pháp luật Common Law cũng như Civil Law. Bởi công bố án lệ bằng tuyển tập là sự khẳng định giá trị án lệ và bản án, quyết định thông thường. Trong khi ở Việt Nam đưa vào Tuyển tập án lệ chỉ là cách tập hợp, lưu trữ án lệ chứ không phải là thủ tục ghi nhận hiệu lực, giá trị án lệ so với các bản án, quyết định như ở các nước khác. Án lệ ở Việt Nam được công bố bởi một quyết định của chủ thể có thẩm quyền, đó là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Điều này thể hiện sự khác biệt về cách thức công bố án lệ ở Việt Nam với hầu hết các quốc gia khác.

Thứ tư, về phương thức công bố án lệ.

Ở Việt Nam, án lệ được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao... và được đưa vào Tuyển tập án lệ để xuất bản[10]. Nếu căn cứ vào các phương thức công bố án lệ in trên giấy và trên phương tiện điện tử ở các nước trên thế giới, thì ở Việt Nam đều không ghi nhận hai phương thức này. Khác với nhiều nước theo truyền thống Common Law, đăng tải trên cổng thông tin hay đưa vào tuyển tập án lệ không làm phát sinh hiệu lực áp dụng án lệ ở Việt Nam. Công bố trên cổng thông tin để phổ biến rộng rãi cho các chủ thể tiếp cận, sử dụng, viện dẫn phục vụ mục đích nghiên cứu, tố tụng, giảng dạy, đào tạo…

Phương thức công bố án này của án lệ trên Cổng thông tin của Tòa án nhân dân tối cao có vẻ tương đồng với hoạt động công bố bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án theo Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP ngày 16/3/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc công khai bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP). Nếu có khác biệt thì các án lệ này được gửi cho các Tòa án, đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao mà các bản án, quyết định không thấy quy định rõ. Vấn đề đặt ra ở đây là, công bố án lệ trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án không thuộc đối tượng điều chỉnh của Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP. Phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP là hướng dẫn về nguyên tắc, thủ tục công bố bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án[11] chứ không bao gồm án lệ. Các bản án, quyết định được công bố phải là toàn bộ nội dung bản án, quyết định (trừ những thông tin cá nhân được mã hóa) và giữ đúng hình thức, bố cục của bản án, quyết định đã được quy định trong các luật tố tụng và được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành mẫu để áp dụng thống nhất[12]. Vậy vấn đề đặt ra là, việc công bố án lệ trên Cổng thông tin điện tử Tòa án được điều chỉnh bởi văn bản nào, cụ thể như thế nào?

Mặt khác, hiện chưa có hướng dẫn cụ thể về cách thức sắp xếp án lệ một cách khoa học. Hiện nay, mặc dù số lượng các án lệ đã được công bố không ngừng được tăng lên theo thời gian và dự kiến trong tương lai, số lượng án lệ sẽ rất lớn với nhiều lĩnh vực được công bố bởi các Tòa án khác nhau. Điều này dẫn đến vấn đề tra cứu, sử dụng án lệ sẽ gặp nhiều khó khăn nếu như không được phân loại, sắp xếp một cách khoa học với những tiêu chí rõ ràng, phù hợp. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có sự hướng dẫn cụ thể về cách thức sắp xếp án lệ một cách khoa học để phục vụ hiệu quả và tiện lợi cho việc tra cứu, sử dụng, đây là một vấn đề cần phải được xem xét và hoàn thiện trước bối cảnh yêu cầu thực tiễn đặt ra hiện nay[13].

2. Quy định pháp luật về bãi bỏ án lệ

2.1. Các trường hợp bãi bỏ án lệ

Khi pháp luật và xã hội phát triển và thay đổi, có những án lệ không còn phù hợp với thực tế. Nếu án lệ vẫn được áp dụng, sử dụng, viện dẫn thì sẽ bất hợp lý. Điều này đòi hỏi án lệ cũ phải được điều chỉnh, bổ sung hoặc được thay thế bằng một án lệ mới. Vì thế, Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP quy định các trường hợp bãi bỏ án lệ như sau:

Thứ nhất, án lệ đương nhiên bị bãi bỏ không cần thủ tục: Án lệ đương nhiên bị bãi bỏ trong trường hợp án lệ không còn phù hợp do có sự thay đổi của pháp luật[14]. Đối chiếu với những trường hợp bãi bỏ án lệ ở hầu hết các nước trên thế giới, trường hợp án lệ đương nhiên bị hủy bỏ theo quy định của pháp luật Việt Nam tương tự như ở nước khác.

Thứ hai, án lệ bị bãi bỏ theo thủ tục pháp lý: Đây là trường hợp án lệ bị bãi bỏ do không còn phù hợp do chuyển biến tình hình hoặc do bản án, quyết định có nội dung được lựa chọn phát triển thành án lệ đã bị hủy, sửa toàn bộ hoặc phần liên quan đến án lệ[15]. Trường hợp này, việc bãi bỏ án lệ phải tuân thủ theo một thủ tục tương tự như thủ tục tạo lập án lệ với nhiều bước theo quy định tại khoản 3 Điều 6 và quy định tại Điều 10 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP.

Đối với trường hợp bãi bỏ án lệ không còn phù hợp do chuyển biến tình hình, cần cân nhắc lại thuật ngữ “chuyển biến tình hình” vì quy định vậy này quá chung chung, thậm chí không có một tiêu chí nào cụ thể để xác định liệu đã có sự chuyển biến tình hình hay chưa và có hay không nên đề xuất bãi bỏ án lệ do chuyển biến tình hình. Theo đó, cần đưa ra một số tiêu chí nhất định để các cá nhân, tổ chức, Tòa án dễ dàng đánh giá tình hình và đưa ra các kiến nghị về bãi bỏ án lệ. Ví dụ như ở Mỹ, cũng là trường hợp bãi bỏ án lệ do không phù hợp với điều kiện thực tế. Tuy nhiên, ở Mỹ sử dụng thuật ngữ cụ thể và dễ hiểu hơn. Đó là trường hợp án lệ không có khả năng thực hiện hoặc khó thực hiện trên thực tế[16].

Đối với trường hợp bãi bỏ án lệ do bản án, quyết định có nội dung được lựa chọn phát triển thành án lệ đã bị hủy, sửa toàn bộ hoặc phần liên quan đến án lệ, căn cứ này có lẽ xuất phát từ việc án lệ ở Việt Nam không phải là bản án, quyết định gốc mà được biên tập lại. Trong khi đó, Việt Nam áp dụng hai cấp xét xử và các giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, thủ tục đặc biệt nhằm sửa sai của bản án, quyết định cấp dưới nên khả năng bản án, quyết định bị hủy, bị sửa nhiều ảnh hưởng đến chất lượng án lệ. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng: “Cần làm rõ những nội dung kế thừa trong án lệ nằm tại lập luận của thẩm phán để giải quyết vụ án. Do đó, khi những bản án bị hủy toàn bộ không phải do những thiếu sót trong lập luận của bản án mà do vi phạm thủ tục tố tụng hay thành phần Hội đồng xét xử không đúng quy định. Theo đó, những trường hợp này giá trị trong các lập luận của bản án để giải quyết vụ án vẫn có thể được kế thừa để giải quyết các vụ án tương tự chứ không bắt buộc phải bãi bỏ”[17]. Tác giả cho rằng, nếu sửa luật theo hướng trường hợp bản án, quyết định bị hủy do vi phạm pháp luật tố tụng mà án lệ thuộc phần lập luận pháp luật nội dung thì án lệ vẫn được ghi nhận sẽ không bảo đảm tính khoa học về mặt lý luận và tổng thể, bởi xuất phát từ quy định nguồn án lệ phải là bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

2.2. Thẩm quyền bãi bỏ án lệ

Pháp luật Việt Nam không giống với hầu hết các nước theo truyền thống pháp luật Common Law và Civil Law. Ở các nước theo truyền thống Common Law, thẩm quyền bãi bỏ án lệ được áp dụng trong cả hai trường hợp chiều dọc và chiều ngang theo thứ bậc Tòa án. Trong khi ở các nước theo truyền thống pháp luật Civil Law, thẩm quyền bãi bỏ án lệ thuộc về một số Tòa án có vị trí cao trong hệ thống cơ quan xét xử. Ở Việt Nam, thẩm quyền bãi bỏ án lệ là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Việc bãi bỏ án lệ phải được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao họp biểu quyết thông qua việc bãi bỏ án lệ theo nguyên tắc hướng dẫn tại khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP. Nếu phân trường hợp thẩm quyền bãi bỏ án lệ như ở các nước theo trường phái pháp luật Common Law thì thẩm quyền bãi bỏ án lệ ở Việt Nam là thẩm quyền theo chiều ngang - cơ quan thông qua án lệ là cơ quan có thẩm quyền bãi bỏ án lệ.

2.3. Cách thức bãi bỏ án lệ

Theo quy định tại Điều 10 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP, các chủ thể tham gia vào thủ tục bãi bỏ án lệ bao gồm:

Chủ thể kiến nghị bãi bỏ án lệ là cá nhân, cơ quan, tổ chức, Tòa án. Chủ thể tham gia vào quá trình xem xét bãi bỏ án lệ là Hội đồng tư vấn án lệ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Chủ thể thông qua việc bãi bỏ và công bố án lệ bị bãi bỏ là Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao[18].

Về thủ tục bãi bỏ án lệ: Án lệ ở Việt Nam không thuộc trường hợp bãi bỏ đương nhiên theo khoản 1 Điều 9 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP thì phải trải qua các thủ tục sau để bãi bỏ[19], đó là:

- Bước 1: Cá nhân, cơ quan, tổ chức, Tòa án kiến nghị với Tòa án nhân dân tối cao xem xét việc bãi bỏ án lệ khi phát hiện án lệ thuộc trường hợp bãi bỏ. Tòa án đã hủy, sửa bản án, quyết định thuộc trường hợp tại điểm b khoản 2 Điều 9 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP phải gửi báo cáo kèm theo quyết định đã hủy, sửa về Tòa án nhân dân tối cao để xem xét; Tòa án nhân dân tối cao xem xét việc bãi bỏ án lệ trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ban hành quyết định.

- Bước 2: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tổ chức phiên họp toàn thể Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xem xét việc bãi bỏ án lệ trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận kiến nghị, báo cáo.

- Bước 3: Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao họp biểu quyết thông qua việc bãi bỏ án lệ theo nguyên tắc thông qua án lệ.

- Bước 4: Trên cơ sở kết quả biểu quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối, Chánh án Tòa án nhân dân tối ban hành thông báo bãi bỏ án lệ. Thông báo bãi bỏ án lệ được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao; được gửi cho các Tòa án, các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.

Vấn đề đặt ra ở đây là cần phải có một trình tự, thủ tục hủy bỏ phức tạp và mất nhiều thời gian hay không? Đây là nội dung cần được nghiên cứu, vì chưa có một án lệ nào được công bố bị bãi bỏ ở Việt Nam.

ThS. Nguyễn Thị An Na

Giảng viên chính, Khoa Đào tạo Luật sư, Học viện Tư pháp

[1]. Thay thế Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ.

[2]. Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh (2018), Án lệ trong giải quyết vụ việc dân sự, Sách chuyên khảo, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 57.

[3]. Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao Hàn Quốc (2017), Tài liệu “Hội thảo về chế định án lệ tại Việt Nam”, Hà Nội, tr. 16 - 19.

[4]. Liên minh châu Âu, Tòa án nhân dân tối cao, Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc (2019), Tài liệu Hội thảo Lấy ý kiến đối với dự thảo báo cáo nghiên cứu về quy trình tuyển chọn án lệ và dự thảo Nghị quyết sửa đổi Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP về án lệ, Hà Nội, tr. 21 - 22.

[5]. Xem Điều 27. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao: “5. Chỉ đạo việc tổng kết thực tiễn xét xử, xây dựng và ban hành Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; tổng kết phát triển án lệ, công bố án lệ”.

[6]. Xem khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 04/2019/ NQ-HĐTP.

[7]. Xem Đỗ Thanh Trung (2018), Chức năng tạo lập và áp dụng án lệ của Tòa án ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 59, tr. 119.

[8]. Xem khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 04/2019/ NQ-HĐTP.

[9]. Xem khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 04/2019/ NQ-HĐTP.

[10]. Xem khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 04/2019/ NQ-HĐTP.

[11]. Xem Điều 1 Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP.

[12]. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, Tòa án nhân dân tối cao (2017), Tài liệu Hội nghị trực tuyến tập huấn viết bản án, Hà Nội, tr. 7.

[13]. Khoa Luật, Đại học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh, 2022, Áp dụng án lệ trong hoạt động xét xử của Tòa án hiện nay, Hồ Chí Minh, Nxb. Khoa học Xã hội, 2021, tr. 317.

[14]. Khoản 2 Điều 9 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP.

[15]. Khoản 2 Điều 9 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP.

[16]. Khoa Luật, Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Thành phố Hồ Chí Minh (2022), Áp dụng án lệ trong hoạt động xét xử của Tòa án hiện nay, Sách chuyên khảo, Nxb. Khoa học Xã hội, tr. 507.

[17]. Khoa Luật, Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học thành phố Hồ Chí Minh (2021), Sách chuyên khảo Áp dụng án lệ trong hoạt động xét xử của Tòa án hiện nay, Nxb. Khoa học Xã hội, tr. 517.

[18]. Xem khoản 1, 2, 3 Điều 10 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP.

[19]. Xem khoản 1, 2, 3 Điều 10 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 388), tháng 9/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm