Thứ ba 17/06/2025 11:47
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quyền lãng quên trên môi trường internet ở một số quốc gia và kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết phân tích quyền được lãng quên trên môi trường internet theo pháp luật ở một số quốc gia và rút ra kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

Abstract: The article analyzes the right to be forgotten in the internet environment according to the law in some countries and draws experience for reference for Vietnam in the process of completing the law on this issue.

Theo nghĩa chung nhất, quyền được lãng quên (QĐLQ) có thể được xem là quyền của cá nhân trong việc tự xác định “khi nào, bằng cách nào và mức độ thông tin về họ được truyền đạt cho người khác”[1], từ đó, hỗ trợ cá nhân tăng cường kiểm soát thông tin về bản thân họ. Một số chuyên gia khác cho rằng, QĐLQ nằm trong nhóm quyền riêng tư, được áp dụng trong lĩnh vực thông tin, cụ thể là mức độ công khai thông tin mà chủ thể quyền mong muốn[2].

Qua nghiên cứu, tác giả cho rằng, QĐLQ là quyền của cá nhân đối với yêu cầu xóa dữ liệu mà cá nhân đã cung cấp. Theo đó, các quy định về xóa bỏ dữ liệu cá nhân trên không gian mạng internet từ yêu cầu của chủ thể dữ liệu sẽ đặt ra các nghĩa vụ pháp lý khác nhau đối với chủ thể xử lý dữ liệu, cụ thể là trong việc thu thập, ghi, phân tích, lưu trữ, thay đổi, tiết lộ, cấp quyền truy cập, truy xuất, thu hồi, mã hóa, giải mã, sao chép, chuyển giao, xóa, hủy dữ liệu, thông tin cá nhân.

1. Quyền được lãng quên theo pháp luật của một số quốc gia

1.1. Cộng hòa Pháp

Là thành viên của Liên minh châu Âu, Cộng hòa Pháp đã thúc đẩy việc thừa nhận QĐLQ trên không gian mạng từ năm 2009, cùng với sự ra đời của Điều lệ cho phép người dùng internet hạn chế dấu vết của họ trên web vào năm 2010. Hướng tới mục tiêu tăng cường bảo vệ quyền riêng tư và quyền của người dùng internet, Điều lệ này có quy định rằng, các bên ký cam kết “đề xuất một phương tiện để có thể yêu cầu sửa đổi hoặc xóa bất kỳ dữ liệu cá nhân nào đã được công bố”. Ủy ban quốc gia về tin học và tự do của Pháp đã định nghĩa QĐLQ trên không gian mạng là việc cung cấp cho mọi cá nhân khả năng kiểm soát các dấu vết kỹ thuật số và cuộc sống trực tuyến của họ, cho dù là riêng tư hay công khai, theo đó, cá nhân sẽ có thể kiểm soát việc xử lý dữ liệu cá nhân liên quan đến mình. Tuy nhiên, QĐLQ không cho phép kiểm soát hoàn toàn đối với mọi dữ liệu, đặc biệt là trong trường hợp cá nhân bị ràng buộc bởi một số nghĩa vụ nhất định đối với xã hội.

Hội đồng Nhà nước cũng quy định những loại dữ liệu cá nhân được xác định liên quan đến QĐLQ trên môi trường internet bao gồm: (i) Dữ liệu nhạy cảm; (ii) Dữ liệu tội phạm (liên quan đến thủ tục pháp lý hoặc kết án hình sự); (iii) Dữ liệu liên quan đến sự riêng tư mà không nhạy cảm. Dữ liệu nhạy cảm và dữ liệu tội phạm được coi là hai loại dữ liệu được hưởng sự bảo vệ cao nhất, do vậy, yêu cầu hủy niêm yết chỉ có thể bị từ chối hợp pháp nếu quyền truy cập vào dữ liệu nhạy cảm hoặc tội phạm từ việc tìm kiếm tên của người yêu cầu là thực sự cần thiết. Đối với loại thứ ba, việc yêu cầu xóa thông tin có thể bị từ chối nếu việc truy cập thông tin có liên quan đến lợi ích công cộng, trong trường hợp này, quyền tự do thông tin được bảo đảm thay vì QĐLQ.

Hội đồng Nhà nước cũng đồng thời chỉ ra các yếu tố cơ bản cần được tính đến khi áp dụng QĐLQ: (i) Đặc điểm của dữ liệu cá nhân được yêu cầu xóa như bản chất, nội dung, tính khách quan, độ chính xác, nguồn gốc, điều kiện của việc đăng tải cũng như hậu quả của việc nó được tham khảo đối với người có liên quan; (ii) Vai trò xã hội của người yêu cầu xóa dữ liệu (danh tiếng, vai trò của người này trong đời sống công cộng...) ảnh hưởng đến nhu cầu quan tâm của cộng đồng trong việc tiếp cận thông tin của người đó; (iii) Các điều kiện tiếp cận thông tin được công khai: Nếu việc truy cập thông tin đó dễ dàng từ việc tìm kiếm bằng các từ khóa không bao gồm tên của đương sự, quyền tự do thông tin sẽ ít bị ảnh hưởng. Hơn nữa, nếu bản thân đương sự đã tiết lộ những thông tin đang được yêu cầu xóa bỏ thì sự xâm phạm quyền riêng tư mà người này cáo buộc sẽ ít có cơ sở hơn. Tuy nhiên, hiện nay, vấn đề QĐLQ tiếp tục tạo ra nhiều ý kiến trái chiều trong xã hội của Pháp giữa quan điểm bảo vệ quyền tự do ngôn luận với quyền riêng tư của con người[3].

1.2. Argentina

QĐLQ tại Argentina có thể được giải thích từ những bảo đảm về quyền bảo mật được ghi nhận trong Hiến pháp của quốc gia này. Những quan điểm ủng hộ QĐLQ được xác lập dựa trên cơ sở những lập luận về quyền tự chủ cá nhân trong việc kiểm soát hình ảnh của họ và ngăn cản người khác sao chép, tái tạo, phát sóng hoặc xuất bản hình ảnh mà không được phép. Theo đó, Điều 43 Hiến pháp Argentina[4] được giải thích như sau: Mọi người đều có quyền yêu cầu nhận thông tin được đăng ký trong hồ sơ hoặc cơ sở dữ liệu công cộng về cá nhân họ, hoặc trong những hồ sơ riêng tư nhằm cung cấp thông tin và trong trường hợp dữ liệu sai lệch hoặc mang tính phân biệt đối xử, cá nhân có thể gửi tới yêu cầu ngăn chặn, cải chính, bảo mật hoặc cập nhật dữ liệu nói trên[5].

1.3. Hàn Quốc

Trong những năm gần đây, vấn đề cho phép các cá nhân yêu cầu dữ liệu cá nhân bị hạn chế truy cập trực tuyến được đưa ra thảo luận một cách sôi nổi ở Hàn Quốc. Một số đạo luật đã đề cập đến QĐLQ như một biện pháp nhằm xóa một số thông tin cá nhân nhất định do bên thứ ba công bố, có thể kể đến như: Luật Bản quyền, Luật Trọng tài báo chí và bồi thường thiệt hại do báo chí, Luật Khuyến khích sử dụng mạng thông tin và truyền thông và bảo vệ dữ liệu. Tuy nhiên, trong trường hợp các cá nhân mất quyền kiểm soát các bài đăng của mình vì lý do mất thông tin tài khoản thành viên hoặc trang web đã bị tạm ngừng thì không thể tự xóa các bài đăng cá nhân của họ.

Tháng 5/2016, Ủy ban Truyền thông của Hàn Quốc (South Korea’s Communications Commission - KCC) đã đưa ra thông báo rằng, công dân có thể yêu cầu các công cụ tìm kiếm và quản trị viên trang web hạn chế quyền truy cập công khai các bài đăng của họ. KCC cũng đồng thời ban hành “Nguyên tắc về quyền yêu cầu hạn chế truy cập đối với các bài đăng trên internet cá nhân”, có hiệu lực từ tháng 6/2016 và không áp dụng cho nội dung của bên thứ ba.

Thông qua việc áp dụng các nguyên tắc do KCC cung cấp, cá nhân có thể bảo vệ quyền riêng tư của mình khỏi những tổn thương hoặc thiệt hại có thể xảy ra đối với việc làm, sự thăng tiến trong công việc hoặc hôn nhân do hậu quả của những bài đăng trong quá khứ của chính họ. Người có yêu cầu có thể nộp đơn yêu cầu hạn chế quyền truy cập kèm theo các minh chứng sau: (i) Bài đăng đang được đề cập và URL liên kết đến bài đăng; (ii) Bằng chứng rằng bài đăng đang được đề cập đã được đăng bởi người nộp đơn; (iii) Căn cứ cho yêu cầu. Yêu cầu có thể bị từ chối nếu bài đăng được yêu cầu xóa thuộc phạm vi bị cấm, hoặc bị gỡ bỏ theo các quy chế hiện hành[6] và/hoặc bài đăng chứa các thông tin liên quan đến lợi ích công cộng. Các bên thứ ba có thể phản đối quyết định của nhà điều hành web trong việc cấp phép hạn chế truy cập bằng cách tuyên bố rằng họ là người tải lên bài đăng đang được đề cập, không phải người đăng ký, kèm theo những minh chứng cần thiết.

Tuy nhiên, bộ nguyên tắc nêu trên không có tính ràng buộc, mà được thực hiện dựa trên sự hợp tác tự nguyện của các nhà khai thác web và nhà cung cấp dịch vụ. Mặc dù vậy, bảo đảm quyền riêng tư của người sử dụng có thể là một hình thức cạnh tranh phi giá đối với các doanh nghiệp kiếm lợi từ internet, vì ngày càng nhiều người dùng có nguyện vọng thực hiện quyền yêu cầu hạn chế truy cập đối với các bài đăng của họ. Trong trường hợp này, các nhà cung cấp dịch vụ internet sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc tuân thủ Nguyên tắc để duy trì cơ sở người dùng của họ[7].

Liên quan đến việc bảo đảm quyền riêng tư cho trẻ em và trẻ vị thành niên, Chính phủ Hàn Quốc đang thúc đẩy một đạo luật để bảo đảm “QĐLQ trên internet” cho trẻ vị thành niên. Theo đó, trẻ em có thể yêu cầu xóa hình ảnh, video hoặc thông tin khác do cha mẹ đăng lên mà không có sự đồng ý của các em. Theo dự kiến ban hành được công bố bởi Ủy ban Bảo vệ thông tin cá nhân và các bộ chính phủ, trẻ vị thành niên sẽ có quyền xóa hoặc ẩn thông tin cá nhân của họ khỏi internet.

Theo luật bảo vệ thông tin cá nhân hiện hành, mọi trẻ vị thành niên và người trưởng thành đều có thể yêu cầu xóa thông tin cá nhân trực tuyến, nhưng chỉ áp dụng với những thông tin do chính họ đăng tải, không phải bởi bên thứ ba. Vì lẽ đó, trong năm nay, Chính phủ Hàn Quốc sẽ thực hiện một dự án thí điểm giúp trẻ vị thành niên yêu cầu xóa thông tin cá nhân trực tuyến trước khi ban hành thành luật vào năm 2024. Theo đó, Chính phủ sẽ cần giải thích các điều khoản và điều kiện bằng ngôn ngữ dễ hiểu hơn cho những người dưới 14 tuổi khi thu thập thông tin cá nhân của họ. Từ năm 2022, Chính phủ cũng cung cấp các chương trình giáo dục cho trẻ vị thành niên và cha mẹ để họ có thể cảnh giác hơn với các nguy cơ vi phạm thông tin cá nhân[8].

1.4. Philippines

Theo Hiến pháp Philippines năm 1987, quyền riêng tư được ghi nhận ở hai khía cạnh là quyền được bảo vệ an toàn đối với cá nhân, nhà cửa, giấy tờ của họ cũng như chống lại việc khám xét và thu giữ bất hợp lý và quyền bảo mật thông tin liên lạc, thư từ. Cùng với sự phát triển của công nghệ, quyền riêng tư đã được mở rộng hơn cùng với sự ban hành Quy tắc về thu hồi dữ liệu năm 2008, cho phép xóa hoặc sửa chữa các dữ liệu hoặc thông tin sai sót.

Tuy nhiên, Tòa án tối cao nước này tương đối nghiêm ngặt trong việc áp dụng các quyền riêng tư cụ thể đối với thông tin tìm thấy trên internet. Trong vụ Vivares v. St. Theresa’s College năm 2014[9], trong phán quyết của mình, Tòa án đã tuyên bố: Người dùng internet phải nhận thức được rằng, bằng cách nhập hoặc tải lên bất kỳ loại dữ liệu hoặc thông tin trực tuyến nào, những thông tin này sẽ tồn tại vĩnh viễn trên nền tảng trực tuyến và sự tồn tại của chúng nằm ngoài sự kiểm soát của người dùng. Mặc dù vậy, những phát triển mới trong luật bảo vệ dữ liệu ở quốc gia này đã cho thấy, QĐLQ là một bộ phận của bảo vệ sự riêng tư. Đạo luật về bảo vệ dữ liệu riêng tư năm 2012 quy định quyền tạm ngừng và chặn dữ liệu, cho phép chủ thể dữ liệu ra lệnh chặn, xóa hoặc hủy thông tin cá nhân của họ khỏi hệ thống lưu trữ của các bộ phận kiểm soát thông tin cá nhân. Quyền này được thực hiện dựa trên một trong số những cơ sở sau đây: (i) Dữ liệu cá nhân không đầy đủ, lỗi thời, sai hoặc thu được bằng phương thức bất hợp pháp; (ii) Dữ liệu cá nhân đang được sử dụng cho các mục đích trái phép; (iii) Dữ liệu cá nhân không còn phù hợp với mục đích thu thập, lưu trữ ban đầu; (iv) Chủ thể dữ liệu không còn đồng ý với việc công khai dữ liệu hoặc phản đối quy trình xử lý dữ liệu.

Ngoài ra, chủ thể dữ liệu cũng có quyền đối với những tranh chấp về sự không chính xác hoặc sai sót trong thông tin cá nhân và yêu cầu chủ thể kiểm soát thông tin cá nhân sửa ngay lập tức. Quyền này được coi là hệ quả của QĐLQ và có nội hàm tương đối giống quyền hồi đáp và sửa chữa theo Quy định chung về bảo vệ dữ liệu của Liên minh châu Âu, bởi lẽ, nó cho phép chủ thể dữ liệu sửa chữa những thông tin không chính xác hoặc hoàn thành dữ liệu không đầy đủ bởi bộ điều khiển dữ liệu[10].

2. Quy định về quyền được lãng quên trong pháp luật Việt Nam hiện nay

QĐLQ chưa được ghi nhận một cách cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của internet, QĐLQ bắt đầu được đưa vào các cuộc thảo luận về vấn bảo đảm quyền riêng tư nói chung và quyền riêng tư trên không gian mạng nói riêng. Quyền riêng tư với tư cách là một quyền cơ bản của con người, được ghi nhận ngay từ bản Hiến pháp năm 1946 (Điều thứ 11) và tiếp tục được củng cố trong các bản Hiến pháp về sau. Cụ thể hóa tinh thần Hiến pháp, các văn bản pháp luật chuyên ngành cũng đã có một số quy định liên quan đến việc bảo vệ quyền riêng tư của cá nhân nói chung, trong đó có thể kể đến như: Bộ luật Dân sự năm 2015 (Điều 32, Điều 38); Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Điều 70)... Tuy vậy, xét tổng quát, QĐLQ với tư cách là một phương thức/biện pháp nhằm bảo vệ quyền riêng tư nói chung và quyền riêng tư trên không gian mạng nói riêng hiện vẫn chưa được đề cập một cách rõ ràng trong pháp luật Việt Nam.

Xét từ một khía cạnh khác, quyền được bảo vệ dữ liệu cá nhân với tư cách là một cấu phần của quyền riêng tư hiện nay vẫn chưa được điều chỉnh bởi một văn bản pháp luật thống nhất. Thay vào đó, quyền này được bảo vệ bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Luật Giao dịch điện tử, Luật Công nghệ thông tin, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật An toàn thông tin mạng, Luật An ninh mạng, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về thương mại điện tử; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng… Trong nỗ lực tăng cường khung pháp lý quyền về sự riêng tư thông tin, Việt Nam đã ban hành Luật An toàn thông tin mạng năm 2015, trong đó đưa ra định nghĩa thông tin cá nhân, các nguyên tắc bảo vệ quyền về sự riêng tư dữ liệu, quy định về thu thập, sử dụng, sửa đổi, xóa thông tin cá nhân cùng với trách nhiệm của Chính phủ trong việc bảo vệ dữ liệu riêng tư. Đồng thời, luật đòi hỏi cần có sự đồng ý của chủ sở hữu trước khi xử lý thông tin cá nhân (bao gồm thu thập, chỉnh sửa, sử dụng, lưu trữ, cung cấp, chia sẻ hoặc lan truyền), quy định tổ chức, cá nhân xử lý thông tin cá nhân có trách nhiệm bảo mật thông tin và phải công bố chính sách sử dụng và bảo vệ thông tin được xử lý. Luật An ninh mạng năm 2018 lần đầu tiên yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng tại Việt Nam phải thông báo trực tiếp cho người dùng nếu dữ liệu của họ bị vi phạm, bị hư hỏng hoặc bị mất. Quy định này tương đồng với các yêu cầu đặt ra trong Quy định chung về bảo vệ dữ liệu (GDPR) của Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, trước ảnh hưởng mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0, pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này vẫn bộc lộ một số hạn chế, có thể kể đến như thiếu các quy định cụ thể quyền riêng tư đối với dữ liệu và bảo vệ thông tin cá nhân; một số quy định hiện hành còn thiếu rõ ràng và mới dừng lại ở mức độ nguyên tắc; các quy định về chế tài với những hành vi vi phạm quyền với dữ liệu cá nhân còn chưa tương xứng, chưa bảo đảm tính răn đe[11].

Số liệu báo cáo thống kê đã phản ánh nhu cầu cao của người Việt Nam trong việc sử dụng internet và các phương tiện truyền thông xã hội, do đó, việc hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến bảo vệ dữ liệu cá nhân, cũng như cho phép cá nhân thực hiện QĐLQ đối với những thông tin liên quan đến cá nhân mình là điều cần thiết. Trước bối cảnh trên, dự thảo Nghị định quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân[12] áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tới dữ liệu cá nhân đã quy định cho phép chủ thể dữ liệu có quyền yêu cầu xóa dữ liệu cá nhân.

Tác giả cho rằng, việc QĐLQ trên môi trường internet có thể được áp dụng ở những mức độ khác nhau, từ xóa bỏ hoàn toàn những kết quả có liên quan khi tìm kiếm trên thanh công cụ đến hạn chế khả năng tiếp cận thông tin cá nhân bằng việc xóa bỏ một số đường dẫn hiển thị từ các công cụ tìm kiếm. Bên cạnh đó, việc ghi nhận quyền lãng quên còn cần tính đến tác động của quyền này đối với việc thụ hưởng các quyền con người khác, trong đó có quyền tự do biểu đạt và thông tin. Đây cũng là một thách thức đặt ra đối với các nhà lập pháp trong quá trình pháp điển hóa QĐLQ của chủ thể dữ liệu ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền được lãng quên ở Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia có nhu cầu tương tác, kết nối xã hội cao. Hiện trạng này càng gia tăng thách thức trong việc cân bằng giữa vấn đề chuyển dữ liệu đa nền tảng trong thời kỳ kỹ thuật số và QĐLQ của cá nhân. Liên quan đến việc áp dụng QĐLQ, một nhóm nghiên cứu từng đưa ra thảo luận về các yêu cầu kỹ thuật mang tính nghiêm ngặt khi thực hiện các yêu cầu xóa dữ liệu và trong môi trường trí tuệ nhân tạo, có thể không thể thực hiện QĐLQ một cách tuyệt đối, bởi lẽ, kể cả khi thông tin được yêu cầu xóa thì trước đó, những thông tin này có thể đã được sao chép và/hoặc có tên là ẩn danh lưu hành qua nhiều nền tảng mạng khác nhau. Vì vậy, cá nhân cũng đồng thời cần có ý thức với những thông tin cá nhân cung cấp cho các nền tảng mạng và tự đánh giá những rủi ro có thể gặp phải. Theo đó, QĐLQ chỉ được bảo đảm nếu có thể bảo đảm cho các cá nhân quyền kiểm soát cân bằng dữ liệu cá nhân của họ. Áp dụng QĐLQ sẽ góp phần vào sự thay đổi trong cán cân cân bằng về quyền lực và về lợi ích vì mọi cá nhân đều bình đẳng và là thành viên tích cực trong xã hội thông tin mở[13].

Trước tình hình trên, việc làm cần thiết trước mắt chính là xây dựng, ban hành một đạo luật quy định rõ ràng về nội dung, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp giám sát, theo dõi thư tín, truyền thông internet của cá nhân, cũng như cơ chế giám sát, khiếu nại, khiếu kiện trong trường hợp có sự vi phạm. Tiến trình xây dựng văn bản này cần được tổ chức công khai, có sự tham gia của các cơ quan nghiên cứu, tổ chức xã hội và báo chí[14].

Những nỗ lực của Việt Nam trong việc xây dựng khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân, trong đó, các quy định về QĐLQ trên môi trường internet đã cho thấy bước phát triển mới trong nhận thức của các nhà lập pháp về vấn đề bảo vệ quyền riêng tư trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0. Dự thảo đã bước đầu tiệm cận với những đạo luật tiến bộ trên thế giới, tuy nhiên, vẫn cần lưu ý một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, việc gửi yêu cầu xóa dữ liệu cần tuân thủ những nguyên tắc nhất định, được ghi nhận theo pháp luật nhằm bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người dân cũng như nâng cao trách nhiệm của chủ thể có thẩm quyền.

Thứ hai, cần bảo đảm sự cân bằng giữa quyền riêng tư và quyền thông tin của công chúng. Do đó, việc chấp nhận yêu cầu hủy, xóa dữ liệu cá nhân hay không phụ thuộc vào bản chất của dữ liệu cá nhân. Để thực hiện được điều này, cần có sự phân loại rõ ràng với những dữ liệu được coi là dữ liệu cá nhân.

Thứ ba, thẩm quyền và trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu hủy, xóa dữ liệu cần được quy định rõ ràng. Quy trình gửi yêu cầu có thể gồm các bước đơn giản như sau: (i) Chủ thể dữ liệu yêu cầu bên xử lý dữ liệu cá nhân hủy, xóa dữ liệu cá nhân của mình; (ii) Bên xử lý dữ liệu cá nhân xem xét yêu cầu hủy, xóa dữ liệu có thuộc các trường hợp pháp luật quy định không và trả lời trong thời hạn quy định; (iii) Nếu chủ thể dữ liệu không đồng ý với kết quả trả lời của bên xử lý dữ liệu hoặc không nhận được phản hồi trong thời hạn quy định thì chủ thể dữ liệu có thể gửi yêu cầu đến Ủy ban bảo vệ dữ liệu cá nhân (thành lập theo pháp luật) hoặc khởi kiện ra Tòa án[15].

TS. Nguyễn Thị Dung

Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

[1]. Alan F. Westin, Privacy And Freedom, 25 Wash. & Lee L. Rev. 166 (1968), link tham khảo: https://scholarlycommons.law.wlu.edu/wlulr/vol25/iss1/20.

[2]. Article 19 (2016), The “Right to be Forgotten”: Remembering Freedom of Expression, link tham khảo: https://www.article19.org/data/files/The_right_to_be_forgotten_A5_EHH_HYPERLINKS.pdf.

[3]. Huỳnh Thị Nam Hải & Huỳnh Thị Minh Hải (2021), Quyền được lãng quên và vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, link tham khảo: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat-the-gioi/quyen-duoc-lang-quen-va-van-de-bao-ve-du-lieu-ca-nhan.

[4]. Constitution of Argentina 1853 (reinst. 1983, rev. 1994), Translated to English by Jonathan M. Miller and Fang-Lian Liao, Link tham khảo: https://www.constituteproject.org/constitution/Argentina_1994?lang=en.

[5]. Edward L. Carter, Argentina’s Right to be Forgotten, 27 Emory Int’l L. Rev. 23 (2013), link tham khảo: https://scholarlycommons.law.emory.edu/eilr/vol27/iss1/3.

[6]. Trong trường hợp này, các nhà điều hành web phải lưu giữ, bảo quản bài đăng của cá nhân.

[7]. Yulchon (2017), South Korea: Korea Communications Commission Releases Guidelines On “The Right To Be Forgotten”, link tham khảo: https://www.mondaq.com/it-and-internet/561018/korea-communications-commission-releases-guidelines-on-the-right-to-be-forgotten.

[8]. Chi Mai (2022), Hàn Quốc: Yêu cầu cha mẹ tôn trọng “quyền được lãng quên trên internet” của con cái, Báo Văn hóa Online, link tham khảo: http://baovanhoa.vn/the-gioi/artmid/425/articleid/54587/han-quoc160yeu-cau-cha-me-ton-trong-%E2%80%9Cquyen-duoc-lang-quen-tren-internet%E2%80%9D-cua-con-cai.

[9]. Supreme Court of the Philippines (2014), Vivares v. St. Theresa’s College, Link tham khảo: https://lawphil.net/judjuris/juri2014/sep2014/gr_202666_2014.html.

[10]. The Right to Be Forgotten in the Philippine Context, link tham khảo: https://www.privacy.com.ph/the-right-to-be-forgotten-in-the-philippine-context/.

[11]. Vũ Công Giao & Lê Trần Như Tuyên (2020), Bảo vệ quyền đối với dữ liệu cá nhân trong pháp luật quốc tế, pháp luật ở một số quốc gia và giá trị tham khảo cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 09 (409), tháng 5/2020.

[12]. Xem toàn văn tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Cong-nghe-thong-tin/Du-thao-Nghi-dinh-quy-dinh-ve-bao-ve-du-lieu-ca-nhan-465185.aspx.

[13]. Ngô Thị Minh Hương & Phạm Hải Chung, Quyền được lãng quên trong kỷ nguyên số: Thách thức của ứng dụng trí tuệ nhân tạo, Link tham khảo: https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/94766/1/KY-1034.pdf.

[14]. Lã Khánh Tùng, Một số vấn đề về bảo vệ quyền riêng tư trong không gian internet,http://nhanquyen.vn/ images/File/1012017%20-%20b%C3%A0i%20quy%E1%BB%81n%20ri%C3%AAng%20t%C6%B0%20internet.pdf.

[15]. Huỳnh Thị Nam Hải & Huỳnh Thị Minh Hải (2021), Quyền được lãng quên và vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, link tham khảo: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat-the-gioi/quyen-duoc-lang-quen-va-van-de-bao-ve-du-lieu-ca-nhan.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Xử lý hành vi sử dụng mã độc tống tiền theo pháp luật hình sự - Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam

Hiện nay, các tội phạm sử dụng công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội diễn ra ngày càng phổ biến. Một trong những công nghệ cao để thực hiện các hành vi phạm tội, nguy hiểm, gây ra thiệt hại lớn cho xã hội được các tội phạm sử dụng nhiều nhất, chính là sử dụng mã độc tống tiền (Ransomware). Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật để kịp thời phòng, chống những tác hại của Ransomware là thực sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của Hoa Kỳ và Trung Quốc, từ đó, kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Pháp luật về hòa giải thương mại của Việt Nam và Ấn Độ - Góc nhìn so sánh và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Việt Nam và Ấn Độ đều có khung pháp lý điều chỉnh hoạt động hòa giải thương mại, nhưng có sự khác biệt đáng kể về cơ chế vận hành và thực thi. Bài viết sử dụng phương pháp so sánh luật học để phân tích và đối chiếu quy định pháp luật giữa hai quốc gia, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp luật về hòa giải thương mại tại Việt Nam.

Vai trò của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp và giá trị tham khảo cho Việt Nam

Nội các Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình lập pháp với quyền đề xuất hầu hết các dự thảo luật trình lên Quốc hội. Bài viết nghiên cứu, phân tích vị trí, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Nội các Nhật Bản trong hoạt động lập pháp, từ sáng kiến đến soạn thảo, đánh giá và thông qua luật. Đồng thời, so sánh với quy trình lập pháp tại Việt Nam, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt quan trọng. Từ đó, đề xuất các giá trị mà Việt Nam có thể tham khảo nhằm nâng cao vị trí và vai trò của Chính phủ trong quá trình xây dựng pháp luật.

Hình phạt tiền - Dưới góc nhìn so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với Liên bang Úc và kinh nghiệm cho Việt Nam

Hình phạt tiền ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống hình phạt của nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam và Liên bang Úc, như một biện pháp hiệu quả để xử lý các hành vi phạm tội, đặc biệt là các tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm do pháp nhân thực hiện. Bài viết phân tích quy định pháp luật hình sự về hình phạt tiền của Việt Nam và Liên bang Úc, làm rõ sự khác biệt về đối tượng pháp nhân chịu trách nhiệm, phương pháp xác định mức phạt, các yếu tố Tòa án cân nhắc và cơ chế thi hành; từ đó, rút ra một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.

Kết đôi dân sự theo pháp luật của Pháp và gợi mở quy chế pháp lý cho cặp đôi không muốn kết hôn tại Việt Nam

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã ghi nhận và thiết lập quy định liên quan đến vấn đề chung sống như vợ chồng, bởi đây là hiện tượng khách quan và phổ biến trong xã hội. Bộ luật Dân sự Pháp đã thiết kế chế định kết đôi dân sự để điều chỉnh mối quan hệ giữa các cặp đôi chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn. Bài viết phân tích chế định kết đôi dân sự ở Pháp, thực trạng chung sống như vợ chồng ở Việt Nam và gợi mở về một số thay đổi của chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình tại Việt Nam.
Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh theo pháp luật của Vương quốc Anh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam[1]

Kiện phái sinh là một cơ chế pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của cổ đông và công ty. Hình thức kiện này đã hình thành từ rất lâu tại Anh và được xây dựng dựa trên nền tảng thông luật. Ở Việt Nam, kiện phái sinh mới chỉ được ghi nhận thông qua các quy định pháp luật trong thời gian gần đây. Bài viết phân tích các quy định pháp lý về hình thức kiện phái sinh tại Vương quốc Anh, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của cơ chế này, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện cơ chế kiện phái sinh, phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.

Xây dựng mô hình Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ tại Việt Nam - Kinh nghiệm từ Nhật Bản và Vương quốc Anh

Bài viết so sánh mô hình Tòa Thượng thẩm sở hữu trí tuệ chuyên sâu Nhật Bản và hệ thống Tòa án sở hữu trí tuệ xét xử linh hoạt ở Anh, từ đó, rút ra khuyến nghị cho Việt Nam, đề xuất thành lập Tòa án chuyên biệt về sở hữu trí tuệ tại các trung tâm kinh tế lớn, kết hợp mô hình xét xử phù hợp để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả.

Thuế carbon và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon - Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý khung pháp lý cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada trong thiết kế và thực thi chính sách định giá carbon, đồng thời, chỉ ra những khoảng trống của pháp luật Việt Nam, đặc biệt, về Hệ thống đo lường, giám sát phát thải và Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon. Trên cơ sở đó, đề xuất lộ trình xây dựng luật thuế carbon, tích hợp Hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon nội địa và quy trình quản lý thuế minh bạch, giúp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, bảo vệ doanh nghiệp và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu về trí tuệ nhân tạo (AI), sự cần thiết ứng dụng AI trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nhìn từ kinh nghiệm của một số quốc gia, khu vực dẫn đầu trong việc ứng dụng AI vào bảo hộ quyền SHTT như Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc… từ đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi mở cho việc ứng dụng AI trong việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc ứng dụng AI vào hoạt động bảo hộ quyền SHTT.

Chuẩn hợp đồng (Quasi contract) - Cơ sở pháp lý và đề xuất áp dụng tại Việt Nam

Bài viết phân tích khái niệm chuẩn hợp đồng (Quasi contract) trong hệ thống pháp luật Common Law và sự tương đồng với một số quy định trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, đồng thời đề xuất việc nghiên cứu lựa chọn có chọn lọc và áp dụng Quasi contract vào hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền lợi các bên.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo - Nhìn từ thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết phân tích chính sách bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư liên quan đến trí tuệ nhân tạo (AI) ở một số quốc gia trên thế giới, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam về vấn đề này.

Cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba tại Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài viết phân tích cơ chế miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả của bên thứ ba (cơ chế Safe Harbor) trong luật pháp Hoa Kỳ và Việt Nam, từ đó, đưa ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật liên quan đến các trường hợp miễn trừ trách nhiệm cho nhà cung cấp dịch vụ trung gian trên internet.

Xây dựng luật thuế các-bon - Kinh nghiệm Singapore và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Thuế các-bon là một công cụ tài chính quan trọng nhằm giảm phát thải khí nhà kính bằng cách định giá lượng khí CO₂ thải ra môi trường. Việc áp dụng thuế này không chỉ giúp kiểm soát ô nhiễm mà còn tạo nguồn thu để đầu tư vào các giải pháp phát triển bền vững. Trong bối cảnh đã có nhiều quốc gia xây dựng, ban hành và áp dụng thuế các-bon, Việt Nam cần cân nhắc xây dựng khung pháp lý phù hợp cho việc áp dụng thuế các-bon trong nước. Singapore là một trong những quốc gia đi đầu ở Đông Nam Á trong xây dựng, áp dụng pháp luật về thuế các-bon với nhiều điểm nổi bật mà Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với thực tế của Việt nam. Xuất phát từ đó, bài viết làm rõ một số kinh nghiệm nổi bật của Singapore về xây dựng Luật thuế các-bon, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích quy định về xác định tình trạng việc làm của người làm việc thông qua nền tảng công nghệ theo Chỉ thị (EU) 2024/2831 ngày 23/10/2024 của Nghị viện và Hội đồng châu Âu về việc cải thiện điều kiện làm việc đối với công việc nền tảng (Chỉ thị (EU) 2024/2831) và thực trạng xác định tình trạng lao động tại Việt Nam hiện nay, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam.

Miễn trừ thông báo tập trung kinh tế - Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tập trung kinh tế là quá trình giảm số lượng doanh nghiệp độc lập trên thị trường thông qua sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh nhằm mở rộng quy mô và nâng cao khả năng cạnh tranh. Hành vi này giúp tối ưu nguồn lực nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ hạn chế cạnh tranh, dẫn đến độc quyền, ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường và người tiêu dùng. Pháp luật cạnh tranh của Mỹ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản kiểm soát tập trung kinh tế qua quy định về thông báo giao dịch và các trường hợp miễn trừ thông báo đối với hành vi tập trung kinh tế ít tác động đến thị trường. Từ kinh nghiệm của những quốc gia này về các trường hợp được miễn thông báo tập trung kinh tế, nghiên cứu đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm