Chủ nhật 14/12/2025 04:38
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Sự cần thiết phải bổ sung phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong dự thảo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi)

Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có thể hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được hiểu là phạm vi các lĩnh vực hoạt động mà Nhà nước có trách nhiệm bồi thường. Ví dụ, Nhà nước chỉ chấp nhận bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án mà không bồi thường đối với thiệt hại gây ra trong hoạt động lập pháp.

Dưới góc độ tính chất của hoạt động công vụ, phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được hiểu là phạm vi các hoạt động thuộc chức năng công quyền. Ví dụ, Nhà nước chỉ bồi thường đối với thiệt hại gây ra bởi các hoạt động thuộc chức năng công quyền mà không bồi thường đối với thiệt hại gây ra bởi các hoạt động phi công quyền. Dưới góc độ thiệt hại được bồi thường, phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có thể được hiểu là những thiệt hại nào sẽ được Nhà nước bồi thường, những thiệt hại nào thì Nhà nước không có trách nhiệm bồi thường. Ví dụ, Nhà nước chỉ bồi thường đối với các thiệt hại về vật chất (thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút, thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết, thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khỏe) và thiệt hại về tinh thần. Dưới góc độ ý thức chủ quan của người thi hành công vụ khi gây ra thiệt hại, phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được hiểu là phạm vi các trường hợp mà Nhà nước bồi thường được xác định trên cơ sở xác định lỗi của người thi hành công vụ. Ví dụ, nhà nước chỉ chấp nhận bồi thường đối với những thiệt hại gây ra trong trường hợp người thi hành công vụ có lỗi. Dưới góc độ giới hạn hay không giới hạn các trường hợp được bồi thường trong từng lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có thể được hiểu là giới hạn các trường hợp được bồi thường trong từng lĩnh vực cụ thể. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ đề cập đến phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước dưới góc độ các lĩnh vực hoạt động mà Nhà nước có trách nhiệm bồi thường, theo đó Nhà nước có trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại gây ra bởi hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ trong lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án.

Theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 hiện hành thì phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có đặc điểm là:

Thứ nhất, Nhà nước chỉ bồi thường đối với những thiệt hại phát sinh trong hoạt động thi hành công vụ;

Thứ hai, chỉ có 06 lĩnh vực mà Nhà nước có trách nhiệm bồi thường là: Quản lý hành chính, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự.

Theo số liệu tổng hợp báo cáo của các bộ, ngành và địa phương, từ khi Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có hiệu lực đến ngày 31/12/2015, các cơ quan có trách nhiệm bồi thường đã thụ lý, giải quyết 258 vụ việc yêu cầu bồi thường thiệt hại, trong đó, đã giải quyết được 204 vụ việc (đạt tỷ lệ 79%), với tổng số tiền nhà nước phải bồi thường là 111 tỷ 149 triệu 416 nghìn đồng, còn lại 54 vụ việc đang tiếp tục giải quyết[1]. Như vậy, có thể thấy rằng, số lượng vụ việc được thụ lý không nhiều, chưa phản ánh đúng thực chất tình hình thực thi pháp luật và chế độ công vụ, nhất là trong hoạt động quản lý hành chính.

Trong hơn 06 năm triển khai thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, quy định về phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập sau:

Thứ nhất, trong hoạt động quản lý hành chính

Điều 13 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước liệt kê 11 trường hợp Nhà nước có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính và có 01 khoản (khoản 12 Điều 13) quy định “các trường hợp được bồi thường khác do pháp luật quy định”. Thực tiễn thi hành cho thấy, quy định này chưa rõ ràng nên dẫn đến còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Hiện nay, Luật Khiếu nại năm 2011 và Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã mở rộng phạm vi khiếu nại và phạm vi khởi kiện vụ án hành chính, trong đó, bao gồm cả xử lý kỷ luật công chức “công chức giữ chức vụ Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống bị xử lý kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật” (khoản 2 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính năm 2015), về quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại “được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm; được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật” (điểm i khoản 1 Điều 12 Luật Khiếu nại). Thực tiễn trong hơn 06 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 cũng cho thấy, đã phát sinh nhiều vụ việc yêu cầu bồi thường, giải quyết yêu cầu bồi thường do xử lý kỷ luật với hình thức buộc thôi việc trái pháp luật đối với công chức mà các trường hợp này còn chưa có sự thống nhất trong nhận thức cũng như trong áp dụng pháp luật để giải quyết yêu cầu bồi thường. Bên cạnh đó Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đã quy định biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là một trong những biện pháp xử lý hành chính.

Thứ hai, trong hoạt động tố tụng hình sự

Theo quy định tại khoản 5 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 thì “người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự”. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước mới chỉ quy định với các trường hợp tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh sự mà chưa quy định trường hợp bị bắt trái pháp luật. Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể về trường hợp người bị thiệt hại do hoạt động tố tụng hình sự gây ra bao gồm “người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra” (khoản 1 Điều 31). Do đó, những người bị bắt trái pháp luật chưa được bồi thường.

Mặt khác, theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì pháp nhân thương mại được bổ sung là một chủ thể của tội phạm. Chính vì vậy, nếu pháp nhân thương mại bị khởi tố, truy trố, xét xử, thi hành án trái pháp luật thì sẽ được bồi thường.

Thứ ba, trong hoạt động tố tụng hành chính, tố tụng dân sự

Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong 02 trường hợp: (1) Nếu người tiến hành tố tụng trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thì cơ quan trực tiếp quản lý người tiến hành tố tụng có hành vi trái pháp luật đó phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật về TNBTCNN (khoản 5 Điều 13); (2) Trong trường hợp Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường nếu thuộc một trong các trường hợp: (i) Tòa án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; (ii) Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu; (iii) Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cơ quan, tổ chức, cá nhân và (iv) Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thời hạn theo quy định của pháp luật hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không có lý do chính đáng. Việc bồi thường thiệt hại đối với các trường hợp nêu trên được Bộ luật tố tụng dân sự dẫn chiếu áp dụng quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (khoản 2 và 3 Điều 113 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Như vậy, so với Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, thì Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung thêm một số trường hợp vào phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự so với quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hiện hành, chứ không chỉ “bó gọn” trong 04 trường hợp như quy định hiện hành.

Mặt khác, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của Luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”. Trong khi đó khoản 4 Điều 28 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 có quy định phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính là: “Ra bản án, quyết định mà biết rõ là trái pháp luật hoặc cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án.” Như vậy, theo quy định này, Nhà nước chỉ có trách nhiệm bồi thường khi người tiến hành tố tụng phải có lỗi cố ý. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 được hiểu rằng lỗi vô ý làm sai lệch hồ sơ vụ án mà gây thiệt hại không phải là căn cứ loại trừ trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Do đó, cần sửa đổi quy định này theo hướng: Người tiến hành tố tụng dân sự, tố tụng hành chính ra bản án trái pháp luật hoặc làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc thì Nhà nước phải bồi thường.

Thứ tư, trong hoạt động thi hành án dân sự

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về các căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có sự thay đổi về yếu tố lỗi của người gây ra thiệt hại, cụ thể là, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định lỗi là một yếu tố bắt buộc (khoản 1 Điều 604 - “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm…”), trong khi đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định lỗi là một yếu tố bắt buộc (khoản 1 Điều 584 - “Người nào có hành vi xâm phạm…”). Như vậy, quy định nêu trên của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đặt ra yêu cầu đối với Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là cần phải sửa đổi quy định về căn cứ xác định TNBTCNN, theo đó, lỗi không còn được coi là một yếu tố bắt buộc trong mọi trường hợp.

Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trên là do Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước chưa được thể chế hóa cụ thể, đầy đủ các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân được quy định tại Chương II Hiến pháp năm 2013. Mặt khác, trong điều kiện hiện nay, khi các đạo luật có liên quan đến bồi thường nhà nước được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới thì phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước chưa bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với các quy định của các đạo luật đó (Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011, Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015; Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Luật Tạm giam, tạm giữ năm 2015…). Ngoài ra, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định về phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo hướng liệt kê nên chưa dự liệu, bao quát được hết các trường hợp phải bồi thường trong quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án.

Để khắc phục được những hạn chế, bất cập nêu trên, đồng thời đáp ứng đáp ứng yêu cầu thực thi Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và các đạo luật có liên quan, tôi cho rằng, việc nghiên cứu, đề xuất mở rộng phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước khi tiến hành xây dựng Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi) là cần thiết và cấp bách. Trong bài viết này, tôi xin đề xuất bổ sung thêm một số trường hợp thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, cụ thể như sau:

- Trong hoạt động quản lý hành chính, đề nghị bổ sung các trường hợp: Công chức giữ chức vụ từ Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống bị xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc trái pháp luật; áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

- Trong hoạt động tố tụng hình sự, đề nghị bổ sung trường hợp bị bắt trái pháp luật vào phạm vi trách nhiệm bồi thường khi có văn bản xác định thuộc trường hợp được bồi thường; bổ sung trường hợp pháp nhân thương mại bị khởi tố, truy trố, xét xử, thi hành án trái pháp luật.

- Trong hoạt động thi hành án hình sự, đề nghị bổ sung trường hợp không thực hiện quyết định của Tòa án có thẩm quyền về việc tha tù trước thời hạn đối với người bị kết án phạt tù.

- Trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, đề nghị bổ sung thêm các trường hợp: Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thời hạn theo quy định của pháp luật hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không có lý do chính đáng và trường hợp ra bản án, quyết định trái pháp luật tố tụng dân sự, tố tụng hành chính hoặc làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc.

Nguyễn Thị Tươi
Cục Bồi thường nhà nước


[1] Theo Báo cáo tổng kết 06 năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Tóm tắt: Trong kinh tế tri thức, tài sản trí tuệ là yếu tố then chốt góp phần quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển tư nhân. Bài viết nghiên cứu một số bất cập về pháp luật sở hữu trí tuệ, từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời, đưa ra giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc khai thác hiệu quả giá trị kinh tế của tài sản trí tuệ, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.

Theo dõi chúng tôi trên: