Chủ nhật 14/12/2025 04:29
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Sự khác nhau giữa thủ tục thông báo trực tiếp cho cá nhân so với thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức trong hoạt động thi hành án dân sự

Trong bài viết này, tác giả phân tích và so sánh thủ tục thông báo trực tiếp cho người được thông báo là cá nhân với khi thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức theo các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự hiện nay.

1. Thủ tục thông báo trong hoạt động thi hành án dân sự

Thông báo trong thi hành án dân sự là cách thức để thông tin đến các đương sự hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan về các quyết định, văn bản thi hành án, hay các thông tin khác liên quan đến việc thi hành án. Mục đích của việc thông báo là để những người này biết về quyền và nghĩa vụ của mình để thực hiện theo quy định của pháp luật. Do vậy, việc thông báo cần phải được thực hiện một cách minh bạch, kịp thời, chính xác và đúng pháp luật để đảm bảo quá trình thi hành án được diễn ra suôn sẻ và hiệu quả.

Hiện nay, pháp luật về thi hành án quy định khá chi tiết, chặt chẽ về trình tự thủ tục thông báo. Các vấn đề liên quan đến thông báo được quy định từ Điều 39 đến Điều 43 Luật Thi hành án dân sự; Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, được sửa đổi, bổ sung tại khoản 7 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 15/3/2020 của Chính phủ (sau đây gọi là Nghị định số 62/2015/NĐ-CP); Điều 2 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự...

2. Thủ tục thông báo trực tiếp cho cá nhân

Quy định về thủ tục thông báo trực tiếp cho cá nhân trong hoạt động thi hành án được quy định tại Điều 40 Luật Thi hành án dân sự hiện hành, cụ thể như sau:

“1. Văn bản thông báo cho cá nhân phải được giao trực tiếp và yêu cầu người đó ký nhận hoặc điểm chỉ.

2. Trường hợp người được thông báo vắng mặt thì văn bản thông báo được giao cho một trong số những người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú với người đó, bao gồm vợ, chồng, con, ông, bà, cha, mẹ, bác, chú, cô, cậu, dì, anh, chị, em của đương sự, của vợ hoặc chồng của đương sự.

Việc giao thông báo phải lập thành biên bản. Ngày lập biên bản là ngày được thông báo hợp lệ.

Trường hợp người được thông báo không có người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú hoặc có nhưng người đó từ chối nhận văn bản thông báo hoặc người được thông báo vắng mặt mà không rõ thời điểm trở về thì người thực hiện thông báo phải lập biên bản về việc không thực hiện được thông báo, có chữ ký của người chứng kiến và thực hiện việc niêm yết công khai theo quy định tại Điều 42 của Luật này.

3. Trường hợp người được thông báo đã chuyển đến địa chỉ mới thì phải thông báo theo địa chỉ mới của người được thông báo”.

Như vậy, theo quy định trên thì việc thông báo trực tiếp cho cá nhân có thể thực hiện bằng cách giao trực tiếp văn bản thông báo cho người được thông báo, hoặc thông báo thông qua người thân thích theo quy định, cụ thể:

- Thủ tục thông báo trực tiếp cho người được thông báo. Khi giao (thông báo) thì người thực hiện việc thông báo phải yêu cầu người nhận phải ký nhận hoặc điểm chỉ. Tuy nhiên, trong thực tế thường xảy ra trường hợp người được thông báo từ chối nhận văn bản và từ chối việc ký nhận vào biên bản do người thực hiện thông báo lập. Trong trường hợp này, trên thực tế người thực hiện việc thông báo (chấp hành viên, thừa phát lại hoặc thư ký) sẽ nói rõ nội dung được thông báo cho đương sự nghe sau đó lập biên bản và có người chứng kiến, thì xem như mục đích của việc thông báo đã đạt được. Như vậy, việc người được thông báo không đồng ý nhận văn bản và không đồng ý ký tên vào biên bản cũng không ảnh hưởng đến mục đích của việc thông báo, vì chính bản thân họ đã được nghe về nội dung cần thông báo đã biết được quyền và nghĩa vụ của mình trong văn bản cần thông báo, nên họ vẫn phải có nghĩa vụ thực hiện theo các quyền và nghĩa vụ đã được nghe (thông báo). Hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề này tại khoản 4 Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định “Trường hợp đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan từ chối không nhận thông báo thì người thực hiện thông báo trực tiếp phải lập biên bản, có chữ ký của người chứng kiến và việc thông báo được coi là hợp lệ”.

Các quy định trên phản ánh nguyên tắc để xác định việc thông báo đã được thực hiện, dù người nhận có nhận hay từ chối không nhận, vấn đề quan trọng ở đây là họ đã được thông báo và đã nắm được thông tin. Biên bản lập ra trong trường hợp này là bằng chứng cho việc thông báo đã diễn ra đúng quy định của pháp luật.

- Thủ tục, giao thông báo cho người thân thích nhận thay. Trường hợp này cần đáp ứng được các điều kiện sau:

Một là, người được thông báo vắng mặt tại thời điểm, địa điểm người có thẩm quyền thực hiện việc thông báo.

Hai là, người được thông báo có người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú với người đó. Người thân thích gồm có: Vợ, chồng, con, ông, bà, cha, mẹ, bác, chú, cô, cậu, dì, anh, chị, em của đương sự, của vợ hoặc chồng của đương sự.

Ba là, người thân thích đồng ý nhận thay, cam kết giao tận tay hoặc thông báo ngay cho người được thông báo[1].

Bốn là, người thân thích nhận thay phải đồng ý ký nhận vào biên bản.

3. Thủ tục thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức

Quy định của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều 41, cụ thể như sau:

“Trường hợp người được thông báo là cơ quan, tổ chức thì văn bản thông báo phải được giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật hoặc người chịu trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải được những người này ký nhận. Trường hợp cơ quan, tổ chức được thông báo có người đại diện tham gia việc thi hành án hoặc cử người đại diện nhận văn bản thông báo thì những người này ký nhận văn bản thông báo. Ngày ký nhận là ngày được thông báo hợp lệ”.

Theo quy định trên thì việc thông báo cho cơ quan, tổ chức phải được giao trực tiếp cho người có thẩm quyền nhận thông báo (người này có thể là người đại diện theo pháp luật; người được cơ quan, tổ chức ủy quyền; người chịu trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó) và điều quan trọng là người này phải ký nhận thì việc thông báo mới được xem là hợp lệ. Do vậy, nếu họ không ký nhận thì xem như không thể thực hiện được việc thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức.

Hiện nay, có khá nhiều người cho rằng trong trường hợp người nhận thông báo cho cơ quan, tổ chức từ chối nhận văn bản, không ký tên thì áp dụng khoản 4 Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để thực hiện tương tự như thủ tục thông báo trực tiếp cho cá nhân. Có nghĩa là khi người nhận thông báo cho cơ quan, tổ chức từ chối nhận văn bản, không ký tên thì người thực hiện thông báo chỉ cần lập biên bản về việc thông báo và có người chứng kiến thì xem như đã thông báo hợp lệ, mục đích thông báo đã đạt được. Tuy nhiên, với các quy định về thông báo trong hoạt động thi hành án dân sự như hiện nay (thủ tục thông báo trong thi hành án dân sự hiện nay có một số điểm khác với quy định về thông báo trong Bộ luật tố Tụng dân sự năm 2015), tác giả cho rằng cách hiểu và thực hiện như vậy là không đúng theo quy định của pháp luật vì các lý do sau:

Thứ nhất, người nhận thông báo cho cơ quan, tổ chức họ không phải là đương sự mà đương sự chính là cơ quan, tổ chức (pháp nhân phải thi hành án hoặc được thi hành án). Về mặt pháp lý, việc thi hành án không ảnh hưởng trực tiếp đến người nhận thông báo, mà ảnh hưởng đến cơ quan, pháp nhân họ đang đại diện.

Thứ hai, Điều 41 đã quy định rõ khi thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức thì những người nhận thông báo cho cơ quan, tổ chức đó phải ký nhận thì việc thông báo mới được xem là hợp lệ. Do vậy, nếu họ từ chối nhận thì xem như mục đích của việc thông báo không đạt được, không thực hiện được việc thông báo.

Vì vậy, trường hợp thông báo cho cơ quan, tổ chức mà người nhận thông báo từ chối nhận văn bản và ký nhận thì người thực hiện thông báo phải lập biên bản về việc không thực hiện được việc thông báo trực tiếp để tiến hành niêm yết công khai theo quy định tại Điều 42 Luật Thi hành án dân sự, chứ không áp dụng quy định tại khoản 4 Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP được vì quy định này chỉ áp dụng cho “đương sự” và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tác giả thấy rằng việc quy định về cách thức thông báo trực tiếp cho cá nhân, cơ quan, tổ chức như trên của Luật Thi hành án dân sự hiện nay là chặt chẽ, phù hợp và bảo đảm được quyền lợi cho các bên đương sự trong quá trình tổ chức thi hành án.

4. Sự khác nhau giữa thủ tục thông báo trực tiếp cho cá nhân so với thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức trong hoạt động thi hành án dân sự

Từ các quy định cụ thể của pháp luật về thi hành án dân sự hiện nay như đã phân tích ở trên thì thủ tục thông báo trực tiếp cho cá nhân so với thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức trong hoạt động thi hành án dân sự có một số điểm khác biệt như sau:

Trong thủ tục thông báo trực tiếp cho cá nhân thì có thể thực hiện giao văn bản cần thông báo trực tiếp cho họ. Trường hợp họ từ chối nhận, từ chối ký nhận thì chỉ cần lập biên bản và có chữ ký của người chứng kiến thì việc thông báo được coi là hợp lệ. Trường hợp, người được thông báo vắng mặt thì có thể giao cho người thân thích đủ điều kiện theo quy định để nhận thay.

Còn khi thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức thì những người nhận thông báo phải nhận văn bản thông báo và ký nhận thì mới được xem là thông báo hợp lệ. Nếu họ không nhận văn bản và không ký nhận thì phải lập biên bản về việc không thực hiện được việc thông báo trực tiếp để tiến hành thủ tục niêm yết công khai theo quy định. Trường hợp, những người nhận thông báo vắng mặt thì không được giao thông báo cho người thân thích của họ nhận thay.

Thông qua những phân tích trên, có thể thấy rằng pháp luật về thi hành án dân sự đã có sự phân biệt rõ ràng về thủ tục thông báo trực tiếp cho cá nhân và thủ tục thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức cả về mặt lập pháp (quy định ở các điều luật khác nhau) và cả về thủ tục thực hiện. Sự khác biệt này không chỉ góp phần vào hiệu quả của việc tổ chức thi hành án mà còn thể hiện sự chặt chẽ và đầy đủ thủ tục thông báo trong hoạt động thi hành án dân sự, góp phần đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan trong quá trình thi hành án. Do vậy, trong quá trình tổ chức thi hành án trên thực tế các chấp hành viên cần nắm vững và áp dụng chính xác để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng và chặt chẽ cho hồ sơ thi hành án.

Hồ Quân Chính

Học viện Tư pháp


[1] Khoản 5 Điều 2 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Ngành Tư pháp thành phố Huế và những đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương

Ngành Tư pháp thành phố Huế và những đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương

Trải qua 35 năm xây dựng và phát triển, cùng với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Tư pháp, Thành ủy, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố và tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, sáng tạo, nỗ lực, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, toàn ngành Tư pháp thành phố Huế đã triển khai thực hiện các mục tiêu với tinh thần vào cuộc “từ sớm, từ xa”, tập trung giải quyết, xử lý kịp thời những vấn đề mới phát sinh, thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ “hàng rào kỹ thuật” về các vấn đề pháp lý, nhất là lĩnh vực trực tiếp gắn liền với người dân, doanh nghiệp; góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng, phát triển của thành phố Huế, ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Sở Tư pháp tỉnh Hà Tĩnh đóng góp quan trọng trong hành trình phát triển kinh tế - xã hội

Sở Tư pháp tỉnh Hà Tĩnh đóng góp quan trọng trong hành trình phát triển kinh tế - xã hội

Trong bức tranh tổng thể phát triển của tỉnh Hà Tĩnh, Sở Tư pháp ngày càng thể hiện rõ vai trò nòng cốt trong tham mưu xây dựng thể chế, kiến tạo hành lang pháp lý vững chắc thông qua những hoạt động chuyên môn sâu, rộng và tinh thần đổi mới sáng tạo không ngừng, góp phần quan trọng vào sự phát triển toàn diện, bền vững của địa phương.
Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của người giám định tư pháp và tổ chức giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu thực tiễn của hoạt động tố tụng

Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của người giám định tư pháp và tổ chức giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu thực tiễn của hoạt động tố tụng

Tóm tắt: Kết luận giám định tư pháp là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng, được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án, vụ việc, giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chứng minh tội phạm. Bài viết phân tích quy định của pháp luật và thực trạng tổ chức, hoạt động của đội ngũ giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng của đối tượng này nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan và hiệu quả trong hoạt động tố tụng.
Nguyên tắc áp dụng có đi có lại trong pháp luật tương trợ tư pháp và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

Nguyên tắc áp dụng có đi có lại trong pháp luật tương trợ tư pháp và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

Việc tương trợ tư pháp được cơ quan chức năng triển khai và áp dụng theo các điều ước quốc tế (song phương và đa phương) mà Việt Nam là thành viên, trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại.
Luật áp dụng trong hoạt động tương trợ tư pháp

Luật áp dụng trong hoạt động tương trợ tư pháp

Trong hoạt động tương trợ tư pháp (TTTP) giữa các quốc gia, cơ quan nhà nước có thẩm quyền (được yêu cầu) ngoài việc áp dụng pháp luật nước mình, có phải áp dụng pháp luật nước ngoài hay không và điều kiện áp dụng ra sao là vấn đề luôn được đặt ra dưới khía cạnh tư pháp quốc tế, cũng như trong hoạt động tố tụng dân sự quốc tế nói chung.
Thực hiện công tác bồi thường nhà nước trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện công tác bồi thường nhà nước trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương hai cấp

Từ ngày 01/7/2025, chính quyền địa phương ở Việt Nam được tổ chức theo mô hình 02 cấp: Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh) và xã, phường, đặc khu trực thuộc cấp tỉnh (cấp xã).
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân khu vực phía Nam

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân khu vực phía Nam

Đối với khu vực phía Nam - nơi tập trung đông dân cư, nhiều trung tâm kinh tế trọng điểm và có sự đa dạng về điều kiện kinh tế - xã hội đang đối mặt với thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và kỹ năng, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân. Đây không chỉ là nhiệm vụ của hệ thống chính trị mà còn là trách nhiệm xã hội của các cơ sở đào tạo pháp luật trong cả nước, trong đó có Trường Cao đẳng Luật miền Nam (sau đây gọi là Trường) - với vai trò là cơ sở đào tạo pháp luật thuộc Bộ Tư pháp xác định sứ mệnh đồng hành cùng địa phương, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật tại chỗ thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật.
Công tác đào tạo cao đẳng, trung cấp pháp luật; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho các tổ chức, cá nhân khu vực miền Trung - Tây Nguyên - Kết quả và định hướng

Công tác đào tạo cao đẳng, trung cấp pháp luật; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho các tổ chức, cá nhân khu vực miền Trung - Tây Nguyên - Kết quả và định hướng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ “then chốt”, trong đó, giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò quan trọng trong đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, các nghị định hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật có liên quan đã tạo hành lang pháp lý cho đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, trong đó có ngành Luật. Nhiều nghị quyết của Bộ Chính trị nhấn mạnh, cần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn để nâng cao hiệu quả quản lý và thực thi pháp luật. Miền Trung - Tây Nguyên là khu vực rộng lớn, đa dạng về văn hóa - xã hội, với nhiều địa bàn đặc thù như vùng cao, vùng biên giới, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Đây cũng là những nơi chịu nhiều tác động tiêu cực từ điều kiện kinh tế, thiên tai, hạ tầng giáo dục và pháp lý chưa đồng đều. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường công tác đào tạo pháp luật và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở, người dân và các đối tượng chuyên môn tại khu vực này không chỉ là nhiệm vụ chuyên môn, mà còn thể hiện trách nhiệm xã hội sâu sắc của ngành Tư pháp, góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từ cơ sở
Trường Đại học Luật Hà Nội - Trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật cho ngành Tư pháp và đất nước

Trường Đại học Luật Hà Nội - Trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật cho ngành Tư pháp và đất nước

Kể từ khi thành lập (ngày 10/11/1979) đến nay, được sự tin tưởng của Đảng và Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội tự hào là một trong những cơ sở đào tạo và nghiên cứu pháp luật hàng đầu của Việt Nam và tiếp tục được Chính phủ xác định là trường trọng điểm đào tạo cán bộ pháp luật theo Quyết định số 1156/QĐ-TTg ngày 30/9/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tổng thể “Tiếp tục xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật”.
Đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Học viện Tư pháp là cơ sở đào tạo nghề luật đầu tiên trực thuộc Bộ Tư pháp và cũng là trung tâm lớn nhất đào tạo chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp của đất nước, trải qua 27 năm, hoạt động đào tạo các chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp của Học viện Tư pháp đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp nhiều vào sự phát triển nguồn nhân lực tư pháp của đất nước, Bộ, ngành Tư pháp và xã hội.
Văn phòng Bộ Tư pháp: Tự hào truyền thống - Đổi mới phát triển

Văn phòng Bộ Tư pháp: Tự hào truyền thống - Đổi mới phát triển

Văn phòng Bộ Tư pháp (sau đây gọi tắt là Văn phòng) - đơn vị có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và quản lý các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, tổng hợp, theo dõi, đôn đốc các đơn vị thuộc Bộ thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của Bộ đã được phê duyệt; tham mưu, điều phối, thực hiện công tác truyền thông đối với hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và quản lý báo chí, xuất bản; tổ chức thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, công tác hành chính, văn thư, lưu trữ, bảo vệ bí mật nhà nước, quản trị, tài chính, bảo vệ, quân sự, y tế của cơ quan Bộ theo quy định của pháp luật. Văn phòng được giao nhiệm vụ tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Văn phòng chính là “cầu nối” giữa Lãnh đạo Bộ và các đơn vị thuộc Bộ, góp phần bảo đảm sự vận hành thông suốt, hiệu quả trong toàn ngành Tư pháp.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý - Kết quả đạt được và một số định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý - Kết quả đạt được và một số định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bài viết về kết quả đạt được của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới.
Công tác đăng ký biện pháp bảo đảm và bồi thường nhà nước - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Công tác đăng ký biện pháp bảo đảm và bồi thường nhà nước - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Bài viết về thành tựu đạt được của công tác đăng ký biện pháp bảo đảm, bồi thường nhà nước và định hướng phát triển trong giai đoạn mới.
Công tác xuất bản phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển

Công tác xuất bản phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển

Nhà xuất bản Tư pháp là cơ quan của Bộ Tư pháp, có chức năng, nhiệm vụ xuất bản các xuất bản phẩm nhằm phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ, ngành Tư pháp, nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kết quả thực hiện trợ giúp pháp lý trong ngành Kiểm sát nhân dân

Kết quả thực hiện trợ giúp pháp lý trong ngành Kiểm sát nhân dân

Thực hiện Chiến lược phát triển và mục tiêu đổi mới công tác trợ giúp pháp lý, trong những năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân luôn tích cực, trách nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt được những kết quả đáng ghi nhận.

Theo dõi chúng tôi trên: