Thứ ba 02/12/2025 05:39
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thủ tục xin cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân - Một số vấn đề vướng mắc từ thực tiễn

Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của một người là độc thân hay đang có vợ/chồng. Giấy này được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, như: Để kết hôn, để hoàn thiện hồ sơ giao dịch dân sự... Bài viết đề cập đến một số vấn đề vướng mắc từ thực tiễn thủ tục xin cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân và những vấn đề pháp lý cần hoàn thiện.

1. Quy định pháp luật

Việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân được quy định tại Điều 21, Điều 22, Điều 23 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch (Nghị định số 123/2015/NĐ-CP); Điều 12 Thông tư số 04/2020/TT-BTP ngày 28/5/2020 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch (Thông tư số 04/2020/TT-BTP). Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân như sau:

Về thẩm quyền: Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã, nơi thường trú của công dân Việt Nam. Trường hợp công dân Việt Nam không có nơi thường trú, nhưng có đăng ký tạm trú theo quy định của pháp luật về cư trú thì UBND cấp xã, nơi người đó đăng ký tạm trú cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Quy định này cũng được áp dụng để cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân nước ngoài và người không quốc tịch cư trú tại Việt Nam, nếu có yêu cầu.

Về thủ tục: Người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nộp tờ khai theo mẫu quy định. Trường hợp yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nhằm mục đích kết hôn thì người yêu cầu phải đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã có vợ hoặc chồng nhưng đã ly hôn hoặc người vợ hoặc chồng đã chết thì phải xuất trình hoặc nộp giấy tờ hợp lệ để chứng minh.

Công dân Việt Nam đã ly hôn, hủy việc kết hôn ở nước ngoài, sau đó về nước thường trú hoặc làm thủ tục đăng ký kết hôn mới tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì phải ghi vào Sổ hộ tịch việc ly hôn, hủy kết hôn đã được giải quyết ở nước ngoài (gọi là ghi chú ly hôn). Trường hợp đã nhiều lần ly hôn hoặc hủy việc kết hôn thì chỉ làm thủ tục ghi chú ly hôn gần nhất. Trong trường hợp này thì người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân phải nộp bản sao trích lục hộ tịch ghi chú ly hôn.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, công chức tư pháp - hộ tịch kiểm tra, xác minh tình trạng hôn nhân của người có yêu cầu. Nếu người yêu cầu có đủ điều kiện, việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là phù hợp quy định pháp luật thì công chức tư pháp - hộ tịch trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân ký cấp 01 bản Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người có yêu cầu. Nội dung Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân phải ghi đúng tình trạng hôn nhân của người có yêu cầu và mục đích sử dụng Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.

Trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã từng đăng ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau, người đó có trách nhiệm chứng minh về tình trạng hôn nhân của mình. Trường hợp người đó không chứng minh được thì công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đã từng đăng ký thường trú tiến hành kiểm tra, xác minh về tình trạng hôn nhân của người đó.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, Ủy ban nhân dân cấp xã được yêu cầu tiến hành kiểm tra, xác minh và trả lời bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã yêu cầu về tình trạng hôn nhân của người đó trong thời gian thường trú tại địa phương.

Ngay trong ngày nhận được văn bản trả lời, nếu thấy đủ cơ sở, Ủy ban nhân dân cấp xã cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người yêu cầu.

Trường hợp cá nhân yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để sử dụng vào mục đích khác hoặc do Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã hết thời hạn sử dụng theo quy định thì phải nộp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đó.

Trường hợp người yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để kết hôn mà không nộp lại được Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đây, thì người yêu cầu phải trình bày rõ lý do không nộp lại được Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, cơ quan đăng ký hộ tịch có văn bản trao đổi với nơi dự định đăng ký kết hôn trước đây để xác minh. Trường hợp không xác minh được hoặc không nhận được kết quả xác minh thì cơ quan đăng ký hộ tịch cho phép người yêu cầu lập văn bản cam đoan về tình trạng hôn nhân.

Trường hợp không nhận được kết quả xác minh: Theo quy định, người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã từng đăng ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau mà họ không chứng minh được tình trạng hôn nhân của mình thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đã từng đăng ký thường trú tiến hành kiểm tra, xác minh về tình trạng hôn nhân của người đó. Hoặc trường hợp người yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để kết hôn mà không nộp lại được Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đây thì cơ quan đăng ký hộ tịch có văn bản trao đổi với nơi dự định đăng ký kết hôn trước đây để xác minh.

Trong các trường hợp phải xác minh nêu trên, nếu không xác minh được hoặc không nhận được kết quả xác minh thì sau thời hạn 20 ngày kể từ ngày gửi văn bản yêu cầu xác minh mà không nhận được văn bản trả lời, cơ quan đăng ký tiếp tục giải quyết hồ sơ theo quy định. Trường hợp xác minh về tình trạng hôn nhân thì cho phép người yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân có văn bản cam đoan về tình trạng hôn nhân của mình.

Khi cho phép người yêu cầu lập văn bản cam đoan thì UBND cấp xã phải giải thích rõ cho người lập văn bản cam đoan về trách nhiệm, hệ quả pháp lý của việc cam đoan không đúng sự thật. Cơ quan đăng ký từ chối giải quyết hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ kết quả đăng ký, nếu có cơ sở xác định nội dung cam đoan không đúng sự thật.

2. Hôn nhân thực tế và xác nhận trong trường hợp người yêu cầu đã chết

Tại Điều 33 Thông tư số 04/2020/TT-BTP về cách ghi Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, Sổ cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân có quy định rất rõ ràng cách ghi xác nhận tình trạng hôn nhân trong từng trường hợp cụ thể, phù hợp với pháp luật về hôn nhân và gia đình. Những trường hợp nam nữ sống chung trước ngày 03/01/1987 thì pháp luật công nhận là vợ chồng, không cần phải có Giấy chứng nhận kết hôn mới xác nhận là vợ chồng, thủ tục cấp xác nhận tình trạng hôn nhân cũng giống như những trường hợp khác. Tuy nhiên, thủ tục xác minh tình trạng hôn nhân của người đã chết để phục vụ cho các giao dịch dân sự, trong những trường hợp cụ thể thì Thông tư số 04/2020/TT-BTP không quy định rõ. Nhưng trên thực tế, nếu có phát sinh những yêu cầu xác minh thì UBND cấp xã cũng phải thực hiện mà không được từ chối. Tuy nhiên, những trường hợp không quy định thành thủ tục hành chính thì không xác định được thành phần hồ sơ gồm những loại giấy tờ gì, thời gian giải quyết, lệ phí… Cho nên có thể dẫn đến tình trạng công dân “cứ chờ” và cơ quan có thẩm quyền thì cứ “rủng rỉnh” về thời gian giải quyết mà không chịu trách nhiệm gì cả.

3. Một số đề xuất, kiến nghị

Pháp luật về cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân hiện hành đã có quy định cụ thể đối với từng trường hợp và thủ tục đều có thể thực hiện được, phục vụ tốt nhu cầu của cá nhân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện có những quy định đặt ra cho cơ quan có thẩm quyền được “tùy nghi” dẫn đến cách áp dụng pháp luật không linh hoạt, làm cho người yêu cầu gặp khó khăn, vướng mắc, chậm trễ, cụ thể:

Đối với trường hợp hôn nhân thực tế (chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987), pháp luật đã có quy định cụ thể. Tuy nhiên, vì thủ tục “rườm rà”, nên trong thực tiễn, quá trình thực hiện hồ sơ có nơi yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, có nơi chỉ cần giấy cam đoan. Do đó, theo tác giả, cần phải có quy định cụ thể, thống nhất trong những thủ tục hành chính hoặc giao dịch dân sự nào quan trọng thì cần xác nhận tình trạng hôn nhân, còn giao dịch dân sự đơn giản thì chỉ cần cam đoan, với mong muốn đơn giản hóa thủ tục hành chính, tránh sự tùy tiện, “làm khó” của các cơ quan, tổ chức yêu cầu theo chủ quan, cảm tính.

Theo quy định, người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã từng đăng ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau thì cần hoàn thiện pháp luật theo hướng chỉ cần cam đoan của người yêu cầu về thời gian cư trú ở những nơi đó và tự chịu trách nhiệm về việc cam đoan, nếu phát hiện cam đoan sai thì chịu trách nhiệm (có thể trách nhiệm hình sự). Vì trong thực tiễn, các cơ quan ít phối hợp trong việc xác minh về tình trạng hôn nhân trong trường hợp đã “cắt khẩu” đi nơi khác. Mặt khác, cũng phù hợp với thông lệ quốc tế như một số quốc gia chỉ cần “tuyên thệ” mà không phải xác minh của các cơ quan, tổ chức./.

ThS. Nguyễn Quang Quý

Trưởng phòng Nghiệp vụ 2, Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai

Ảnh: internet

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện công tác bồi thường nhà nước trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện công tác bồi thường nhà nước trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương hai cấp

Từ ngày 01/7/2025, chính quyền địa phương ở Việt Nam được tổ chức theo mô hình 02 cấp: Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh) và xã, phường, đặc khu trực thuộc cấp tỉnh (cấp xã).
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân khu vực phía Nam

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân khu vực phía Nam

Đối với khu vực phía Nam - nơi tập trung đông dân cư, nhiều trung tâm kinh tế trọng điểm và có sự đa dạng về điều kiện kinh tế - xã hội đang đối mặt với thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và kỹ năng, nghiệp vụ pháp luật cho các tổ chức, cá nhân. Đây không chỉ là nhiệm vụ của hệ thống chính trị mà còn là trách nhiệm xã hội của các cơ sở đào tạo pháp luật trong cả nước, trong đó có Trường Cao đẳng Luật miền Nam (sau đây gọi là Trường) - với vai trò là cơ sở đào tạo pháp luật thuộc Bộ Tư pháp xác định sứ mệnh đồng hành cùng địa phương, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật tại chỗ thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn, nghiệp vụ pháp luật.
Công tác đào tạo cao đẳng, trung cấp pháp luật; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho các tổ chức, cá nhân khu vực miền Trung - Tây Nguyên - Kết quả và định hướng

Công tác đào tạo cao đẳng, trung cấp pháp luật; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cho các tổ chức, cá nhân khu vực miền Trung - Tây Nguyên - Kết quả và định hướng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ “then chốt”, trong đó, giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò quan trọng trong đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, các nghị định hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật có liên quan đã tạo hành lang pháp lý cho đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, trong đó có ngành Luật. Nhiều nghị quyết của Bộ Chính trị nhấn mạnh, cần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn để nâng cao hiệu quả quản lý và thực thi pháp luật. Miền Trung - Tây Nguyên là khu vực rộng lớn, đa dạng về văn hóa - xã hội, với nhiều địa bàn đặc thù như vùng cao, vùng biên giới, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Đây cũng là những nơi chịu nhiều tác động tiêu cực từ điều kiện kinh tế, thiên tai, hạ tầng giáo dục và pháp lý chưa đồng đều. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường công tác đào tạo pháp luật và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở, người dân và các đối tượng chuyên môn tại khu vực này không chỉ là nhiệm vụ chuyên môn, mà còn thể hiện trách nhiệm xã hội sâu sắc của ngành Tư pháp, góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từ cơ sở
Trường Đại học Luật Hà Nội - Trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật cho ngành Tư pháp và đất nước

Trường Đại học Luật Hà Nội - Trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật cho ngành Tư pháp và đất nước

Kể từ khi thành lập (ngày 10/11/1979) đến nay, được sự tin tưởng của Đảng và Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội tự hào là một trong những cơ sở đào tạo và nghiên cứu pháp luật hàng đầu của Việt Nam và tiếp tục được Chính phủ xác định là trường trọng điểm đào tạo cán bộ pháp luật theo Quyết định số 1156/QĐ-TTg ngày 30/9/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tổng thể “Tiếp tục xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật”.
Đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Học viện Tư pháp là cơ sở đào tạo nghề luật đầu tiên trực thuộc Bộ Tư pháp và cũng là trung tâm lớn nhất đào tạo chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp của đất nước, trải qua 27 năm, hoạt động đào tạo các chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp của Học viện Tư pháp đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp nhiều vào sự phát triển nguồn nhân lực tư pháp của đất nước, Bộ, ngành Tư pháp và xã hội.
Văn phòng Bộ Tư pháp: Tự hào truyền thống - Đổi mới phát triển

Văn phòng Bộ Tư pháp: Tự hào truyền thống - Đổi mới phát triển

Văn phòng Bộ Tư pháp (sau đây gọi tắt là Văn phòng) - đơn vị có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và quản lý các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, tổng hợp, theo dõi, đôn đốc các đơn vị thuộc Bộ thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của Bộ đã được phê duyệt; tham mưu, điều phối, thực hiện công tác truyền thông đối với hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và quản lý báo chí, xuất bản; tổ chức thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, kiểm soát thủ tục hành chính, thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, công tác hành chính, văn thư, lưu trữ, bảo vệ bí mật nhà nước, quản trị, tài chính, bảo vệ, quân sự, y tế của cơ quan Bộ theo quy định của pháp luật. Văn phòng được giao nhiệm vụ tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Văn phòng chính là “cầu nối” giữa Lãnh đạo Bộ và các đơn vị thuộc Bộ, góp phần bảo đảm sự vận hành thông suốt, hiệu quả trong toàn ngành Tư pháp.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý - Kết quả đạt được và một số định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý - Kết quả đạt được và một số định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bài viết về kết quả đạt được của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới.
Công tác đăng ký biện pháp bảo đảm và bồi thường nhà nước - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Công tác đăng ký biện pháp bảo đảm và bồi thường nhà nước - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Bài viết về thành tựu đạt được của công tác đăng ký biện pháp bảo đảm, bồi thường nhà nước và định hướng phát triển trong giai đoạn mới.
Công tác xuất bản phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển

Công tác xuất bản phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp - Thành tựu đạt được và định hướng phát triển

Nhà xuất bản Tư pháp là cơ quan của Bộ Tư pháp, có chức năng, nhiệm vụ xuất bản các xuất bản phẩm nhằm phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ, ngành Tư pháp, nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kết quả thực hiện trợ giúp pháp lý trong ngành Kiểm sát nhân dân

Kết quả thực hiện trợ giúp pháp lý trong ngành Kiểm sát nhân dân

Thực hiện Chiến lược phát triển và mục tiêu đổi mới công tác trợ giúp pháp lý, trong những năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân luôn tích cực, trách nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Trợ giúp viên pháp lý Hà Nội với thách thức mới từ cải cách hành chính và công nghệ số

Trợ giúp viên pháp lý Hà Nội với thách thức mới từ cải cách hành chính và công nghệ số

Bài viết về một số khó khăn và đề xuất giải pháp để phát huy vai trò của trợ giúp viên pháp lý tại thành phố Hà Nội trong bối cảnh tổ chức lại chính quyền địa phương hai cấp và đẩy mạnh chuyển đổi số.
Thời điểm mở thừa kế của người bị tuyên bố chết theo quy định Bộ luật Dân sự

Thời điểm mở thừa kế của người bị tuyên bố chết theo quy định Bộ luật Dân sự

Bài viết về những hạn chế, bất cập trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về việc xác định thời điểm mở thừa kế trong trường hợp người để lại di sản thừa kế bị tuyên bố chết theo quyết định của Tòa án.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý

Đây là quy định mới theo Nghị định số 121/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 của Chính phủ quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, áp dụng từ ngày 01/7/2025 đến hết ngày 28/02/2025.
Nâng cao hiệu quả công tác cải cách thể chế trên địa bàn tỉnh Lai Châu

Nâng cao hiệu quả công tác cải cách thể chế trên địa bàn tỉnh Lai Châu

Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu là cơ quan tham mưu giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, theo dõi tình hình thi hành pháp luật, kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm góp phần hoàn thiện và cải cách thể chế trên địa bàn tỉnh.
Những vấn đề cần giải quyết khi chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Việt Nam hiện nay

Những vấn đề cần giải quyết khi chuyển đổi số trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Việt Nam hiện nay

Chuyển đổi số là xu thế tất yếu để đổi mới phương thức phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL), nâng cao nhận thức và khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân, doanh nghiệp. Bài viết phân tích thực trạng PBGDPL tại Việt Nam, đồng thời tiếp cận các mô hình chuyển đổi số tiên tiến trên thế giới, từ đó đưa ra giải pháp và khuyến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động PBGDPL trong nước theo hướng hiện đại và bền vững.

Theo dõi chúng tôi trên: