Thứ bảy 31/05/2025 09:38
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thủ tục xin cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân - Một số vấn đề vướng mắc từ thực tiễn

Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của một người là độc thân hay đang có vợ/chồng. Giấy này được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, như: Để kết hôn, để hoàn thiện hồ sơ giao dịch dân sự... Bài viết đề cập đến một số vấn đề vướng mắc từ thực tiễn thủ tục xin cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân và những vấn đề pháp lý cần hoàn thiện.

1. Quy định pháp luật

Việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân được quy định tại Điều 21, Điều 22, Điều 23 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch (Nghị định số 123/2015/NĐ-CP); Điều 12 Thông tư số 04/2020/TT-BTP ngày 28/5/2020 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch (Thông tư số 04/2020/TT-BTP). Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân như sau:

Về thẩm quyền: Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã, nơi thường trú của công dân Việt Nam. Trường hợp công dân Việt Nam không có nơi thường trú, nhưng có đăng ký tạm trú theo quy định của pháp luật về cư trú thì UBND cấp xã, nơi người đó đăng ký tạm trú cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Quy định này cũng được áp dụng để cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân nước ngoài và người không quốc tịch cư trú tại Việt Nam, nếu có yêu cầu.

Về thủ tục: Người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nộp tờ khai theo mẫu quy định. Trường hợp yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nhằm mục đích kết hôn thì người yêu cầu phải đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã có vợ hoặc chồng nhưng đã ly hôn hoặc người vợ hoặc chồng đã chết thì phải xuất trình hoặc nộp giấy tờ hợp lệ để chứng minh.

Công dân Việt Nam đã ly hôn, hủy việc kết hôn ở nước ngoài, sau đó về nước thường trú hoặc làm thủ tục đăng ký kết hôn mới tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì phải ghi vào Sổ hộ tịch việc ly hôn, hủy kết hôn đã được giải quyết ở nước ngoài (gọi là ghi chú ly hôn). Trường hợp đã nhiều lần ly hôn hoặc hủy việc kết hôn thì chỉ làm thủ tục ghi chú ly hôn gần nhất. Trong trường hợp này thì người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân phải nộp bản sao trích lục hộ tịch ghi chú ly hôn.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, công chức tư pháp - hộ tịch kiểm tra, xác minh tình trạng hôn nhân của người có yêu cầu. Nếu người yêu cầu có đủ điều kiện, việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là phù hợp quy định pháp luật thì công chức tư pháp - hộ tịch trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân ký cấp 01 bản Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người có yêu cầu. Nội dung Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân phải ghi đúng tình trạng hôn nhân của người có yêu cầu và mục đích sử dụng Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.

Trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã từng đăng ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau, người đó có trách nhiệm chứng minh về tình trạng hôn nhân của mình. Trường hợp người đó không chứng minh được thì công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đã từng đăng ký thường trú tiến hành kiểm tra, xác minh về tình trạng hôn nhân của người đó.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, Ủy ban nhân dân cấp xã được yêu cầu tiến hành kiểm tra, xác minh và trả lời bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã yêu cầu về tình trạng hôn nhân của người đó trong thời gian thường trú tại địa phương.

Ngay trong ngày nhận được văn bản trả lời, nếu thấy đủ cơ sở, Ủy ban nhân dân cấp xã cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người yêu cầu.

Trường hợp cá nhân yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để sử dụng vào mục đích khác hoặc do Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã hết thời hạn sử dụng theo quy định thì phải nộp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đó.

Trường hợp người yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để kết hôn mà không nộp lại được Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đây, thì người yêu cầu phải trình bày rõ lý do không nộp lại được Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, cơ quan đăng ký hộ tịch có văn bản trao đổi với nơi dự định đăng ký kết hôn trước đây để xác minh. Trường hợp không xác minh được hoặc không nhận được kết quả xác minh thì cơ quan đăng ký hộ tịch cho phép người yêu cầu lập văn bản cam đoan về tình trạng hôn nhân.

Trường hợp không nhận được kết quả xác minh: Theo quy định, người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã từng đăng ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau mà họ không chứng minh được tình trạng hôn nhân của mình thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đã từng đăng ký thường trú tiến hành kiểm tra, xác minh về tình trạng hôn nhân của người đó. Hoặc trường hợp người yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để kết hôn mà không nộp lại được Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đây thì cơ quan đăng ký hộ tịch có văn bản trao đổi với nơi dự định đăng ký kết hôn trước đây để xác minh.

Trong các trường hợp phải xác minh nêu trên, nếu không xác minh được hoặc không nhận được kết quả xác minh thì sau thời hạn 20 ngày kể từ ngày gửi văn bản yêu cầu xác minh mà không nhận được văn bản trả lời, cơ quan đăng ký tiếp tục giải quyết hồ sơ theo quy định. Trường hợp xác minh về tình trạng hôn nhân thì cho phép người yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân có văn bản cam đoan về tình trạng hôn nhân của mình.

Khi cho phép người yêu cầu lập văn bản cam đoan thì UBND cấp xã phải giải thích rõ cho người lập văn bản cam đoan về trách nhiệm, hệ quả pháp lý của việc cam đoan không đúng sự thật. Cơ quan đăng ký từ chối giải quyết hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ kết quả đăng ký, nếu có cơ sở xác định nội dung cam đoan không đúng sự thật.

2. Hôn nhân thực tế và xác nhận trong trường hợp người yêu cầu đã chết

Tại Điều 33 Thông tư số 04/2020/TT-BTP về cách ghi Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, Sổ cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân có quy định rất rõ ràng cách ghi xác nhận tình trạng hôn nhân trong từng trường hợp cụ thể, phù hợp với pháp luật về hôn nhân và gia đình. Những trường hợp nam nữ sống chung trước ngày 03/01/1987 thì pháp luật công nhận là vợ chồng, không cần phải có Giấy chứng nhận kết hôn mới xác nhận là vợ chồng, thủ tục cấp xác nhận tình trạng hôn nhân cũng giống như những trường hợp khác. Tuy nhiên, thủ tục xác minh tình trạng hôn nhân của người đã chết để phục vụ cho các giao dịch dân sự, trong những trường hợp cụ thể thì Thông tư số 04/2020/TT-BTP không quy định rõ. Nhưng trên thực tế, nếu có phát sinh những yêu cầu xác minh thì UBND cấp xã cũng phải thực hiện mà không được từ chối. Tuy nhiên, những trường hợp không quy định thành thủ tục hành chính thì không xác định được thành phần hồ sơ gồm những loại giấy tờ gì, thời gian giải quyết, lệ phí… Cho nên có thể dẫn đến tình trạng công dân “cứ chờ” và cơ quan có thẩm quyền thì cứ “rủng rỉnh” về thời gian giải quyết mà không chịu trách nhiệm gì cả.

3. Một số đề xuất, kiến nghị

Pháp luật về cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân hiện hành đã có quy định cụ thể đối với từng trường hợp và thủ tục đều có thể thực hiện được, phục vụ tốt nhu cầu của cá nhân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện có những quy định đặt ra cho cơ quan có thẩm quyền được “tùy nghi” dẫn đến cách áp dụng pháp luật không linh hoạt, làm cho người yêu cầu gặp khó khăn, vướng mắc, chậm trễ, cụ thể:

Đối với trường hợp hôn nhân thực tế (chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987), pháp luật đã có quy định cụ thể. Tuy nhiên, vì thủ tục “rườm rà”, nên trong thực tiễn, quá trình thực hiện hồ sơ có nơi yêu cầu cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, có nơi chỉ cần giấy cam đoan. Do đó, theo tác giả, cần phải có quy định cụ thể, thống nhất trong những thủ tục hành chính hoặc giao dịch dân sự nào quan trọng thì cần xác nhận tình trạng hôn nhân, còn giao dịch dân sự đơn giản thì chỉ cần cam đoan, với mong muốn đơn giản hóa thủ tục hành chính, tránh sự tùy tiện, “làm khó” của các cơ quan, tổ chức yêu cầu theo chủ quan, cảm tính.

Theo quy định, người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã từng đăng ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau thì cần hoàn thiện pháp luật theo hướng chỉ cần cam đoan của người yêu cầu về thời gian cư trú ở những nơi đó và tự chịu trách nhiệm về việc cam đoan, nếu phát hiện cam đoan sai thì chịu trách nhiệm (có thể trách nhiệm hình sự). Vì trong thực tiễn, các cơ quan ít phối hợp trong việc xác minh về tình trạng hôn nhân trong trường hợp đã “cắt khẩu” đi nơi khác. Mặt khác, cũng phù hợp với thông lệ quốc tế như một số quốc gia chỉ cần “tuyên thệ” mà không phải xác minh của các cơ quan, tổ chức./.

ThS. Nguyễn Quang Quý

Trưởng phòng Nghiệp vụ 2, Sở Tư pháp tỉnh Gia Lai

Ảnh: internet

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người nhiễm vi rút gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người

Bài viết nghiên cứu những quy định của pháp luật về bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người nhiễm HIV, kết quả cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV thời gian qua, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV thời gian tới.

Nhiều giải pháp nâng cao chất lượng công tác thi hành án dân sự trong “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”

Trong năm 2024, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức khi khối lượng công việc ngày càng nhiều, tính chất ngày càng phức tạp, yêu cầu đối với công tác thi hành án dân sự ngày càng cao, biên chế được giao giảm, số việc và số tiền thụ lý mới tiếp tục tăng, nhưng với sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Chính phủ, sự nỗ lực, quyết tâm của toàn hệ thống thi hành án dân sự, đến nay, kết quả thi hành xong về việc, về tiền đều đạt và vượt chỉ tiêu được giao.

Đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm bằng động sản

Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, Cục Đăng ký quốc gia về giao dịch bảo đảm đã đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm, đặc biệt, trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm bằng động sản.

Đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số trong lĩnh vực đăng ký biện pháp bảo đảm góp phần xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số

Cung cấp dịch vụ công trực tuyến nói chung và đăng ký trực tuyến biện pháp bảo đảm nói riêng là một trong những mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số.

Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm chủ động, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao năng lực, hiệu quả điều hành

Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước và tổ chức thi hành pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và đăng ký biện pháp bảo đảm; thực hiện các dịch vụ công về đăng ký, cung cấp thông tin biện pháp bảo đảm và giao dịch, tài sản khác theo thẩm quyền.
Quy trình nghiệp vụ đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm áp dụng tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản

Quy trình nghiệp vụ đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm áp dụng tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản

Quy trình nghiệp vụ này được áp dụng đối với hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm thuộc thẩm quyền của Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp (sau đây gọi là Trung tâm Đăng ký) theo quy định của Nghị định số 99/2022/NĐ-CP ngày 30 tháng 11 năm 2022 của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm và pháp luật khác liên quan.
Tiếp nhận Hồ sơ đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm

Tiếp nhận Hồ sơ đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm

Tiếp nhận Hồ sơ đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm
Quy trình hướng dẫn đăng ký trực tiếp

Quy trình hướng dẫn đăng ký trực tiếp

Quy trình hướng dẫn đăng ký trực tiếp

Thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng tại tỉnh Quảng Trị

Quảng Trị là địa phương có truyền thống cách mạng kiên cường, anh dũng, đồng thời là nơi chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh nên số lượng đối tượng chính sách rất lớn. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống xâm lược đã có hàng vạn người con của quê hương đã chiến đấu và anh dũng hy sinh; rất nhiều đồng bào, chiến sĩ bị địch bắt, chịu tra tấn, tù đày. Công lao và sự hy sinh cao cả của các anh hùng liệt sĩ, thương binh và gia đình có công với Tổ quốc là vô cùng to lớn.
Phát huy vai trò của lực lượng Công an nhân dân trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật[1]

Phát huy vai trò của lực lượng Công an nhân dân trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật[1]

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, từng bước nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho các tầng lớp nhân dân. Để đạt được những kết quả này, có phần đóng góp không nhỏ của lực lượng công an nhân dân trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động nhân dân chấp hành pháp luật tại cơ sở, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật hiện nay cần quan tâm ở Hậu Giang

Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật hiện nay cần quan tâm ở Hậu Giang

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) được xem là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân - mọi người sống và làm việc theo pháp luật. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác PBGDPL, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác này.

Xử lý tiền thi hành án thế nào cho đúng quy định pháp luật?

Từ thực tiễn áp dụng pháp luật trong xử việc xử lý và phân phối tiền thi hành án, tác giả phân tích những quan điểm khác nhau về áp dụng quy định chuyển tiếp của Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ.
Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Thành phố Hà Nội và giải pháp hoàn thiện

Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Thành phố Hà Nội và giải pháp hoàn thiện

Bài viết về một số bất cập trong quy định pháp luật về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, góp phần bảo vệ quyền lợi của trẻ em, đồng thời bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.

Phân cấp, ủy quyền trong một số lĩnh vực tư pháp từ thực tiễn tỉnh Bình Dương

Bài viết tập trung phân tích và đưa ra một số gợi mở để tiếp tục triển khai một cách hiệu quả việc phân cấp, ủy quyền trong một số lĩnh vực tư pháp qua thực tiễn tỉnh Bình Dương.

Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật tại huyện Nậm Pồ

Trong 10 tháng năm 2023, Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị, địa phương triển khai thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, đạt hiệu quả thiết thực.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm